< Lui     Tới >

Đọc Sáng-thế ký 25:1 - 26:35

Áp-ra-ham Cưới Kê-tu-ra

Sau khi Sa-ra qua đời, Áp-ra-ham đã kết hôn với một người phụ nữ tên là Kê-tu-ra. Việc tái hôn này đã mang lại niềm an ủi cho ông, tương tự như cách Y-sác được an ủi bằng hôn nhân sau cái chết của mẹ mình. Qua Kê-tu-ra, Áp-ra-ham có thêm sáu người con trai, bảy cháu trai và ba chắt. Tuy nhiên, không có tài liệu lịch sử nào nhắc đến số con cháu này về sau.

Đáng chú ý là tất cả các con trai của Áp-ra-ham, ngoại trừ Y-sác, đều được gửi đi xa. Việc này có thể được hiểu là để bảo đảm quyền thừa kế sẽ thuộc về Y-sác và dòng dõi của ông mà thôi.

Áp-ra-ham cưới nàng Kê-tu-ra

25   1 Áp-ra-ham cưới một người vợ khác, tên là Kê-tu-ra. 2 Người sanh cho Áp-ra-ham Xim-ram, Giốc-chan, Mê-đan, Ma-đi-an, Dích-bác và Su-ách. 3 Giốc-chan sanh Sê-ba và Đê-đan; con cháu của Đê-đan là họ A-chu-rim, họ Lê-tu-chin và họ Lê-um-mim. 4 Con trai của Ma-đi-an là Ê-pha, Ê-phe, Ha-nóc, A-bi-đa và Ên-đa. Các người trên đây đều là dòng-dõi của Kê-tu-ra.5 Áp-ra-ham cho Y-sác hết thảy gia-tài mình; còn cho các con dòng thứ những tiền-của; 6 rồi, khi còn sống, người sai họ qua đông-phương mà ở, cách xa con dòng chánh, là Y-sác.

Cái Chết của Áp-ra-ham

 Câu chuyện về cuộc đời Áp-ra-ham trong sách Sáng Thế Ký kết thúc với một đoạn ngắn mô tả về cái chết và tang lễ của ông. Điểm đáng chú ý là cả Ích-ma-ên và Y-sác – hai người con trai khác mẹ – đã cùng nhau lo việc chôn cất cho cha, tạm gác lại mọi hiềm khích có thể đã tồn tại giữa họ qua nhiều năm.

Tuy nhiên, sau sự kiện này, lịch sử cho thấy dòng dõi của hai anh em hầu như không có điểm chung nào. Chỉ có một ngoại lệ duy nhất xảy ra khi Ê-sau – con trai của Y-sác – kết hôn với con gái của Ích-ma-ên.

Với sự ra đi của Áp-ra-ham, một nhân vật quan trọng trong câu chuyện về mối quan hệ giữa Đức Chúa Trời và nhân loại đã kết thúc cuộc đời của mình. Tuy nhiên, Áp-ra-ham sẽ mãi được ghi nhớ trong suốt dòng lịch sử như một trong những tấm gương đức tin xuất sắc nhất của nhân loại.

Áp-ra-ham qua đời

7 Áp-ra-ham hưởng-thọ được một trăm bảy mươi lăm tuổi; 8 người tuổi cao tác lớn và đã thỏa về đời mình, tắt hơi, được qui về nơi tổ-tông. 9 Hai con trai người, Y-sác và Ích-ma-ên, chôn người trong hang đá Mặc-bê-la tại nơi đồng của Ép-rôn, con trai Sô-ha, người Hê-tít, nằm ngang Mam-rê. 10 Ấy là cái đồng mà lúc trước Áp-ra-ham mua lại của dân họ Hếch; nơi đó họ chôn Áp-ra-ham cùng Sa-ra, vợ người.

11 Sau khi Áp-ra-ham qua đời, Đức Giê-hô-va ban phước cho Y-sác con trai người. Y-sác ở gần bên cái giếng La-chai-Roi.

Câu Chuyện Cuối về Ích-ma-ên

   Khi Áp-ra-ham qua đời, Ích-ma-ên đã 89 tuổi. Sau đó, ông còn sống thêm 48 năm nữa và có một gia đình đông đúc với 12 con trai, và có lẽ còn nhiều con gái nữa.

Vì sách Sáng Thế Ký sẽ chuyển trọng tâm sang cuộc đời của Y-sác và dòng dõi của ông, nên thông tin cuối cùng về Ích-ma-ên và các con trai của ông được ghi chép tại điểm này trong Kinh Thánh.

Dòng-dõi của Ích-ma-ên
12 Đây là dòng-dõi của Ích-ma-ên, con trai của Áp-ra-ham, do nơi nàng A-ga, người Ê-díp-tô, con đòi của Sa-ra, đã sanh. 13 Và đây là tên các con trai của Ích-ma-ên, sắp thứ-tự theo ngày ra đời: Con trưởng-nam của Ích-ma-ên là Nê-ba-giốt; kế sau Kê-đa, Át-bê-ên, Mi-bô-sam, 14 Mích-ma, Đu-ma, Ma-sa, 15 Ha-đa, Thê-ma, Giê-thu, Na-phích, và Kết-ma. 16 Đó là các con trai của Ích-ma-ên và tên của họ tùy theo làng và nơi đóng trại mà đặt. Ấy là mười hai vị công-hầu trong dân-tộc của họ. 17 Ích-ma-ên hưởng-thọ được một trăm ba mươi bảy tuổi, rồi tắt hơi mà qua đời, được qui về nơi tổ-tông. 18 Dòng-dõi người ở trước mặt anh em mình, từ Ha-vi-la cho đến Xu-rơ, đối ngang Ê-díp-tô, chạy qua A-si-ri.

Ê-sau và Gia-cốp

  Sau khi Áp-ra-ham qua đời, sách Sáng Thế Ký đã thay đổi cách tường thuật, cung cấp nhiều chi tiết hơn về cuộc sống của con cháu ông trong những khoảng thời gian ngắn hơn. So với việc chỉ tóm tắt ngắn gọn 2500 năm đầu tiên, phần còn lại của sách tập trung vào việc mô tả chi tiết về con cháu của Y-sác.

Những câu chuyện được ghi lại cho thấy cả mặt tốt lẫn xấu trong bản chất con người. Qua đó, chúng minh họa những cuộc đấu tranh đạo đức vốn có trong thân phận con người, đồng thời chỉ ra rằng nhân loại cần có Đức Chúa Trời để vượt lên trên hoàn cảnh của chính mình.

Giai đoạn 150 năm tiếp theo bắt đầu với sự kiện Rê-bê-ca sinh đôi. Có lời tiên tri rằng hai con trai này sẽ trở thành tổ phụ của các dân tộc, và những dân tộc này sẽ tranh giành quyền thống trị với nhau trong tương lai. Câu chuyện về họ được kể ngay sau khi cha của Y-sác qua đời.

Ê-sau và Gia-cốp sanh ra

19 Đây là dòng-dõi của Y-sác, con trai Áp-ra-ham. Áp-ra-ham sanh Y-sác. 20 Vả, khi Y-sác được bốn mươi tuổi, thì cưới Rê-be-ca, con gái của Bê-tu-ên và em gái của La-ban, đều là dân A-ram, ở tại xứ Pha-đan-A-ram (nghĩa là xứ Mê-sô-bô-ta-mi)21 Y-sác khẩn-cầu Đức Giê-hô-va cho vợ mình, vì nàng son-sẻ. Đức Giê-hô-va cảm-động lời khẩn-cầu đó, nên cho Rê-be-ca thọ-thai. 22 Nhưng vì thai đôi làm cho đụng nhau trong bụng, thì nàng nói rằng: Nếu quả thật vậy, cớ sao đều nầy xảy đến làm chi? Đoạn, nàng đi hỏi Đức Giê-hô-va. 23 Đức Giê-hô-va phán rằng: Hai nước hiện ở trong bụng ngươi, và hai thứ dân sẽ do lòng ngươi mà ra; dân nầy mạnh hơn dân kia, và đứa lớn phải phục đứa nhỏ.

24 Đến ngày nàng phải sanh-nở, nầy hai đứa sanh đôi trong bụng nàng ra. 25 Đứa ra trước đỏ hồng, lông cùng mình như một áo tơi lông; đặt tên là Ê-sau (nghĩa là nhiều lông). 26 Kế em nó lại ra sau, tay nắm lấy gót Ê-sau, nên đặt tên là Gia-cốp (chánh nghĩa là nắm gót; nhưng đời bấy giờ, tiếng nắm gót là thô-tục. Tiếng nghĩa bóng của Gia-cốp, nắm gót, là chiếm-vị bấy giờ vậy). Khi sanh hai đứa con nầy thì Y-sác đã được sáu mươi tuổi.

Quyền Trưởng Nam Bị Bán

   Một sự kiện có tầm ảnh hưởng lớn đã được ghi lại – đó là việc chuyển nhượng quyền trưởng nam của Ê-sau, người con đầu trong cặp sinh đôi. Sự kiện này không chỉ cho thấy rõ bản chất của các nhân vật liên quan, mà còn mang những ý nghĩa quan trọng đối với sự tiếp nối của dân tộc được Đức Chúa Trời chọn để bày tỏ chính mình.

Theo luật về quyền trưởng nam lúc bấy giờ, với tư cách là con trai đầu lòng, Ê-sau đáng lẽ sẽ được hưởng hai đặc quyền quan trọng: nhận được gấp đôi phần cơ nghiệp của Y-sác và trở thành người lãnh đạo gia đình sau khi Y-sác qua đời.

Ê-sau khinh quyền trưởng-nam
27 Khi hai đứa trai nầy lớn lên, thì Ê-sau trở nên một thợ săn giỏi, thường giong-ruổi nơi đồng ruộng; còn Gia-cốp là người hiền-lành cứ ở lại trại. 28 Y-sác yêu Ê-sau, vì người có tánh ưa ăn thịt rừng; nhưng Rê-be-ca lại yêu Gia-cốp.

29 Một ngày kia, Gia-cốp đương nấu canh, Ê-sau ở ngoài đồng về lấy làm mệt-mỏi lắm; 30 liền nói cùng Gia-cốp rằng: Em hãy cho anh ăn canh gì đỏ đó với, vì anh mệt-mỏi lắm. — Bởi cớ ấy, người ta gọi Ê-sau là Ê-đôm (nghĩa là đỏ). — 31 Gia-cốp đáp rằng: Nay anh hãy bán quyền trưởng-nam cho tôi đi. 32 Ê-sau đáp rằng: Nầy, anh gần thác, quyền trưởng-nam để cho anh dùng làm chi? 33 Gia-cốp đáp lại rằng: Anh hãy thề trước đi. Người bèn thề; vậy, người bán quyền trưởng-nam cho Gia-cốp. 34 Rồi, Gia-cốp cho Ê-sau ăn bánh và canh phạn-đậu; ăn uống xong, người bèn đứng dậy đi. Vậy, Ê-sau khinh quyền trưởng-nam là thế.

   Hậu quả từ việc từ bỏ quyền trưởng nam của Ê-sau

Với sự bất cẩn và thờ ơ, Ê-sau đã vô tình từ bỏ quyền trưởng nam của mình. Qua đó, ông đánh mất cơ hội trở thành người kế thừa những phước lành mà Đức Chúa Trời đã hứa với ông nội Áp-ra-ham. Hậu quả là dòng dõi của ông không bao giờ trở thành dân tộc đặc biệt của Đức Chúa Trời. Thay vào đó, theo lời tiên tri với Rê-bê-ca, con cháu của Ê-sau (được gọi là người Ê-đôm, liên quan đến màu đỏ khi Ê-sau sinh ra) sau này phải phục vụ người Hê-bơ-rơ – con cháu của Gia-cốp, và trở thành nguồn gây xung đột liên tục cho dân tộc này.

Y-sác và những trải nghiệm tương đồng với Áp-ra-ham

Trong khi hai con trai đang xung đột với nhau, bản thân Y-sác cũng trải qua những thử thách đạo đức rất giống với những gì cha mình đã trải qua:

  • Ông phải di cư đến Ghê-ra vì nạn đói, và nói dối về Rê-bê-ca giống như Áp-ra-ham đã từng nói dối về Sa-ra
  • Ông được Chúa ban phước với sự giàu có lớn, giống như Áp-ra-ham
  • Ông gặp phải những tranh chấp về giếng nước tương tự như cha mình

Những điều này cho thấy sự ảnh hưởng sâu sắc của cha mẹ và chu kỳ lặp lại trong hành vi của con người xuyên suốt dòng lịch sử.

Y-sác bị đói-kém đi xuống Ghê-ra.— Lời Đức Chúa Trời hứa cho người

261 Trừ cơn đói-kém thứ nhứt trong đời Áp-ra-ham, bấy giờ tại xứ lại có một lần nữa. Y-sác bèn đi đến A-bi-mê-léc, vua Phi-li-tin, tại Ghê-ra. 2 Đức Giê-hô-va hiện đến cùng người và phán rằng: Chớ xuống xứ Ê-díp-tô; hãy ở lại xứ mà ta sẽ chỉ cho. 3 Hãy ngụ trong xứ nầy, ta sẽ ở cùng ngươi và ban phước cho ngươi; vì ta sẽ cho ngươi cùng dòng-dõi ngươi các xứ nầy và ta sẽ làm thành lời ta đã thề cùng Áp-ra-ham, cha ngươi. 4 Ta sẽ thêm dòng-dõi ngươi nhiều như sao trên trời, sẽ cho họ các xứ nầy; hết thảy dân thế-gian đều sẽ nhờ dòng-dõi ngươi mà được phước; 5 vì Áp-ra-ham đã vâng lời ta và đã giữ đều ta phán dạy, lịnh, luật và lệ của ta.

Nàng Rê-be-ca.— Vua A-bi-mê-léc

6 Vậy, Y-sác ở tại Ghê-ra. 7 Bởi nàng Rê-be-ca sắc-sảo dung-nhan, nên khi dân xứ đó hỏi thăm vợ người, thì người đáp rằng: « Ấy là em gái tôi, » e khi nói: « Ấy là vợ tôi, » thì họ sẽ giết mình chăng. 8 Vả, người ngụ tại xứ đó cũng đã lâu; một ngày kia A-bi-mê-léc, vua Phi-li-tin, ngó ngang qua cửa sổ, thấy Y-sác đương giỡn-chơi cùng Rê-be-ca, vợ người, 9 bèn đòi Y-sác mà rằng: Quả thật là vợ ngươi đó; sao có nói: Ấy là em gái tôi? Y-sác đáp rằng: Vì tôi có thầm nói: Chớ khá vì nàng mà tôi phải bỏ mình. 10 A-bi-mê-léc hỏi: Ngươi làm chi cho chúng ta vậy? Ngộ có một người dân đến nằm cùng vợ ngươi, ngươi làm cho chúng ta phải phạm tội! 11 A-bi-mê-léc bèn truyền lịnh cho cả dân-chúng rằng: Kẻ nào động đến người nầy, hay là vợ người nầy, thì sẽ bị xử-tử.

Y-sác hưng-vượng

12 Y-sác gieo hột giống trong xứ đó; năm ấy gặt được bội trăm phần; vì Đức Giê-hô-va đã ban phước cho. 13 Người nên thạnh-vượng, của-cải càng ngày càng thêm cho đến đỗi người trở nên rất lớn. 14 Người có nhiều bầy chiên, bầy bò và tôi-tớ rất đông; bởi cớ ấy, dân Phi-li-tin đem lòng ganh-ghẻ. 15 Mấy cái giếng lúc trước đầy-tớ của Áp-ra-ham, cha người, đã đào, bây giờ đều bị dân Phi-li-tin lấp đất lại hết. 16 A-bi-mê-léc nói cùng Y-sác rằng: Hãy ra khỏi nơi ta, vì ngươi thạnh-vượng hơn chúng ta bội phần. 17 Vậy, Y-sác bỏ chốn nầy đi đến đóng trại tại trũng Ghê-ra và ở đó.

18 Y-sác bèn đào lại mấy cái giếng người ta đã đào trong đời Áp-ra-ham, cha mình, mà bị dân Phi-li-tin lấp đất lại khi Áp-ra-ham qua đời, và đặt tên mấy giếng đó như tên của cha mình đã đặt. 19 Các đầy-tớ của Y-sác còn đào thêm giếng nơi trũng, gặp được một giếng nước mạch. 20 Nhưng bọn chăn-chiên Ghê-ra tranh-giành cùng bọn chăn-chiên của Y-sác, mà rằng: Nước đó của chúng ta; nên người đặt tên giếng nầy là Ê-sét (nghĩa là tranh-giành). Vì bọn chăn-chiên đó có tranh-giành cùng mình. 21 Kế ấy, các đầy-tớ đào một giếng khác, thì bị tranh-giành nhau nữa; người đặt tên giếng nầy là Sít-na (nghĩa là giành nhau)22 Đoạn, người bỏ chỗ đó đi đào một giếng khác; về giếng nầy, họ không tranh-giành nhau, nên người đặt tên là Rê-hô-bốt (nghĩa là rộng-rãi), mà rằng: Bây giờ Đức Giê-hô-va đã để cho chúng ta được ở rộng-rãi, và ta sẽ đặng thịnh-vượng trong xứ.

Đức Chúa Trời lại hứa cùng Y-sác

23 Y-sác ở đó đi, dời lên Bê-e-Sê-ba. 24 Đêm đó Đức Giê-hô-va hiện đến cùng người và phán rằng: Ta là Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, cha ngươi; chớ sợ chi, ta ở cùng ngươi, sẽ ban phước cho và thêm dòng-dõi ngươi, vì cớ Áp-ra-ham là tôi-tớ ta. 25 Y-sác lập một bàn-thờ, cầu-khẩn danh Đức Giê-hô-va và đóng trại tại đó. Đoạn, các đầy-tớ người đào một cái giếng tại nơi ấy.

Y-sác và A-bi-mê-léc kết ước nhau

26 Vua A-bi-mê-léc ở Ghê-ra đi đến viếng Y-sác, có A-hu-sát, bạn mình, và Phi-côn, quan tổng-binh mình, đi theo. 27 Y-sác bèn hỏi rằng: Các người ghét tôi, đã đuổi tôi ra khỏi nơi mình, sao còn đi đến tôi mà chi? 28 Chúng đáp rằng: Chúng tôi đã thấy rõ-ràng Đức Giê-hô-va phù-hộ người, nên nói với nhau rằng: Phải có một lời thề giữa chúng tôi và người, để chúng ta kết giao-ước với người. 29 Hãy thề rằng: Người chẳng bao giờ làm hại chúng tôi, như chúng tôi đã không động đến người, chỉ hậu-đãi người và cho đi bình-yên. Bây giờ người được Đức Giê-hô-va ban phước cho. 30 Y-sác bày một bữa tiệc, các người đồng ăn uống. 31 Qua ngày sau, chúng dậy sớm, lập lời thề với nhau. Rồi, Y-sác đưa các người đó đi về bình-yên.

32 Cùng trong ngày đó, các đầy-tớ của Y-sác đến đem tin cho người hay về giếng họ đã đào, rằng: Chúng tôi đã thấy có nước. 33 Người bèn đặt tên cái giếng đó là Si-ba (nghĩa là lời thề). Vì cớ đó, nên tên thành ấy là Bê-e-Sê-ba cho đến ngày nay.

Ê-sau cưới vợ

34 Khi Ê-sau được bốn mươi tuổi, cưới Giu-đít, con gái của Bê-ê-ri, người Hê-tít; và Bách-mát, con gái của Ê-lôn, cũng người Hê-tít. 35 Hai dâu đó là một sự cay-đắng lòng cho Y-sác và Rê-be-ca.

< Lui     Tới >