Ngày 01 tháng Hai

< Lui     Trang Lịch     Tới >

Đọc Xuất Ê-díp-tô ký 35:4 - 38:31

Xây Dựng Đền Tạm

Sau khi dân Y-sơ-ra-ên bị sửa phạt và giao ước được tái khẳng định, việc xây dựng đền tạm bắt đầu. “Lều hội kiến” sẽ thay thế lều riêng của Môi-se, với những yêu cầu chi tiết:

Thu thập vật liệu chính xác

Sử dụng đúng công cụ trong lắp ráp

May y phục các thầy tế lễ với độ chính xác tuyệt đối

Sách Xuất Hành ghi lại toàn bộ quá trình từ khởi công đến hoàn thành, cùng việc cung hiến đền tạm để phục vụ Đức Chúa Trời. 

Các lễ-vật dùng để dựng đền-tạm 

35    4 Môi-se nói cùng cả hội-chúng Y-sơ-ra-ên rằng: Đây là các lời Đức Giê-hô-va đã phán dặn: 5 Hãy lấy một lễ-vật chi ở nhà các ngươi mà dâng cho Đức Giê-hô-va. Hễ người nào có lòng thành dâng cho, hãy đem lễ-vật cho Đức Giê-hô-va: vàng, bạc, và đồng; 6 chỉ tím, đỏ điều, đỏ sặm, vải gai mịn, lông dê, 7 da chiên đực nhuộm đỏ, da cá nược, cây si-tim, 8 dầu thắp, các thứ hương-liệu đặng chế dầu-xức và hương-thơm, 9 bích-ngọc, và các thứ ngọc khác để dùng khảm cho ê-phót và bảng đeo ngực. 10 Trong vòng các ngươi mấy người khôn-ngoan hơn hết hãy đến làm mọi đều Đức Giê-hô-va đã phán dặn; 11 đền-tạm, trại và bong của đền-tạm, móc, ván, xà-ngang, trụ và lỗ trụ; 12 hòm bảng-chứng và đòn khiêng; nắp thi-ân cùng màn che nơi chí-thánh; 13 cái bàn và đòn khiêng, các đồ phụ-tùng của bàn cùng bánh trần-thiết; 14 chơn-đèn, đồ phụ-tùng, các đèn và dầu thắp đèn; 15 bàn-thờ xông hương cùng đòn khiêng; dầu-xức, hương-liệu, và bức màn của đền-tạm; 16 bàn-thờ dâng của-lễ thiêu và rá đồng; đòn khiêng và các đồ phụ-tùng của bàn-thờ; cái thùng và chơn thùng; 17 bố-vi che hành-lang, trụ, lỗ trụ, và bức màn của cửa hành-lang; 18 các nọc của đền-tạm, cùng nọc và dây của hành-lang; 19 bộ áo lễ dùng về công-việc trong nơi thánh; bộ áo thánh cho A-rôn, thầy tế-lễ cả, và bộ áo cho các con trai người đặng làm chức tế-lễ.

20 Cả hội-chúng Y-sơ-ra-ên bèn lui ra khỏi mặt Môi-se. 21 Mọi người có lòng cảm-động, và mọi người có lòng thành, đều đem lễ-vật đến dâng cho Đức Giê-hô-va, để làm công-việc hội-mạc, các đồ phụ-tùng và bộ áo thánh. 22 Phàm người nam cùng nữ, tức mọi kẻ có lòng thành, đều đến đem những hoa-tai, nhẫn, khâu, kiềng, các thứ trang-sức bằng vàng, và hết thảy đều dâng lễ-vật bằng vàng cho Đức Giê-hô-va. 23 Kẻ nào ở nhà mình có chỉ tím, đỏ điều, đỏ sặm, vải gai mịn, lông dê, da chiên đực nhuộm đỏ, và da cá nược đều đem đến. 24 Hễ ai có chi làm lễ-vật bằng bạc hay bằng đồng, đều đem dâng cho Đức Giê-hô-va, và hễ ai có cây si-tim nơi nhà mình dùng hiệp về các công-việc tế-lễ, đều đem đến. 25 Phàm người đờn-bà khéo thì chánh tay mình kéo chỉ lấy và đem đến món chi họ đã kéo rồi, chỉ tím, đỏ điều, đỏ sặm, và chỉ gai mịn. 26 Còn mấy người đờn-bà có cảm-động và tài khéo thì kéo chỉ lông dê. 27 Các bực tôn-trưởng trong dân-sự đem bích-ngọc và các thứ ngọc khác để khảm cho ê-phót và bảng đeo ngực; 28 dầu thắp đèn, các hương-liệu để chế dầu-xức và dầu thơm. 29 Cả dân Y-sơ-ra-ên, nam hay nữ, phàm ai có lòng cảm-động xui cho mình tình-nguyện quyên vào các công-việc Đức Giê-hô-va đã phán dặn nơi Môi-se, đều đem dâng cho Đức Giê-hô-va các lễ tình-nguyện vậy.

Bết-sa-lê-ên và Ô-hô-li-áp

30 Môi-se nói cùng dân Y-sơ-ra-ên rằng: Nầy Đức Giê-hô-va đã kêu danh Bết-sa-lê-ên, con trai của U-ri, cháu của Hu-rơ, trong chi-phái Giu-đa. 31 Ngài phú cho người đầy-dẫy Thần của Đức Chúa Trời, sự khôn-ngoan, sự thông-sáng, và sự hiểu-biết, để làm mọi thứ nghề thợ, 32 đặng bày ra và làm đồ vàng, bạc, và đồng, 33 đặng khắc và khảm các thứ ngọc, đặng chạm cây làm các đồ khéo-léo. 34 Ngài lại phú cho người tài dạy-dỗ, và cũng đồng ban cho Ô-hô-li-áp, con của A-hi-sa-mạc, trong chi-phái Đan nữa; 35 Ngài phú cho hai người đó đầy sự khôn-ngoan đặng làm các công-nghệ về thợ thêu, thợ dệt nhiều màu, tức là màu tím, đỏ điều, đỏ sặm, và vải gai mịn; để bày ra và làm các thứ công-nghệ khéo.

Dân-sự có lòng tốt dâng lễ-vật bội-phần

36   1 Bết-sa-lê-ên, Ô-hô-li-áp và các người khôn-khéo, tức là người Đức Giê-hô-va đã phú cho sự khôn-ngoan và sự thông-sáng đặng làm các công-việc định dụng về việc tế-lễ nơi thánh, đều làm mọi việc mà Đức Giê-hô-va đã phán dặn. 2 Vậy, Môi-se bèn gọi Bết-sa-lê-ên, Ô-hô-li-áp, và các người khôn-khéo mà trong lòng họ Đức Giê-hô-va phú sự thông-sáng, cùng các người có lòng cảm-động xui mình đến gần, đặng làm công-việc. 3 Trước mặt Môi-se, họ thâu các lễ-vật của dân Y-sơ-ra-ên đã đem đến, để làm các công-việc định dùng về sự tế-lễ nơi thánh. Nhưng mỗi buổi sớm mai, dân-sự lại đem đến lễ-vật tình-nguyện nữa. 4 Thế thì, các người khôn-khéo làm mọi công-việc của nơi thánh, đều tạm đình, 5 đến nói cùng Môi-se rằng: Dân-sự đem đến dư bội-phần đặng làm các công-việc mà Đức Giê-hô-va đã phán dặn. 6 Theo lịnh-truyền của Môi-se, họ bèn đi rao từ trại-quân rằng: Bất kỳ người nam hay nữ, chớ làm công-việc về lễ-vật của nơi thánh nữa! Vậy họ cấm dân-sự không cho đem đến chi thêm nữa hết. 7 Vì đã đủ các vật-liệu đặng làm hết thảy công-việc, cho đến đỗi còn dư lại nữa.

Dựng đền-tạm

8 Các người khôn-khéo trong vòng những người làm công-việc, dùng mười bức màn bằng vải gai đậu mịn, chỉ tím, đỏ điều, đỏ sặm, thêu hình chê-ru-bin cực-xảo, mà dựng đền-tạm. 9 Mỗi bức màn đều dài hai mươi tám thước, rộng bốn thước; các bức đều đồng cỡ nhau. 10 Họ kết mỗi năm bức màn dính lại nhau; 11 thắt vòng bằng chỉ tím nơi triêng của bức màn thứ nhứt, ở đầu bức nguyên; và cũng làm như vậy cho triêng của bức màn ở nơi chót trong bức nguyên thứ nhì. 12 Họ thắt năm chục vòng theo triêng của bức màn ở đầu của bức nguyên thứ nhứt, và năm chục vòng theo triêng bức màn ở chót của bức nguyên thứ nhì; các vòng đối nhau. 13 Đoạn chế năm chục cái móc bằng vàng, móc bức nầy với bức kia, để cho đền-tạm kết lại thành một.

14 Kế đó, họ dùng lông dê kết mười một bức màn, để làm bong trên đền-tạm. 15 Bề dài mỗi bức màn ba mươi thước, bề rộng bốn thước: mười một bức màn đều đồng cỡ nhau. 16 Họ kết năm bức màn riêng ra; và sáu bức màn khác riêng ra; 17 thắt năm chục cái vòng nơi triêng bức chót của bức nguyên thứ nhứt, và năm chục vòng nơi triêng bưc ở đầu của bức nguyên thứ nhì; 18 làm năm chục cái móc bằng đồng, móc bức bong hiệp lại thành một.

19 Họ cũng làm cho đền-tạm một tấm lá phủ bằng da chiên đực nhuộm đỏ, và một tấm lá phủ bằng da cá nược đắp lên trên.

20 Họ dùng ván bằng cây si-tim làm vách cho đền-tạm. 21 Mỗi tấm ván mười thước bề dài, một thước rưỡi bề ngang. 22 Mỗi tấm có hai cái mộng liên nhau: cả ván đền-tạm đều làm một cách.

23 Vậy, họ làm ván cho đền-tạm: hai chục tấm về phía nam; 24 dưới hai chục tấm làm bốn chục lỗ mộng bằng bạc: dưới mỗi tấm có hai lỗ mộng, để chịu hai cái mộng. 25 Họ cũng làm hai chục tấm ván ở phía bắc đền-tạm, 26 và bốn chục lỗ mộng bằng bạc; dưới mỗi tấm có hai lỗ mộng. 27 Về phía đằng sau của đền-tạm, tức là phía tây, họ làm sáu tấm ván, 28 và về hai góc sau thì làm hai tấm ván. 29 Hai tấm ván góc ra khít với nhau từ dưới chí trên bởi một cái khoen ở nơi đầu; hai góc hai bên đều làm như vậy. 30 Thế thì, có tám tấm ván và mười sáu lỗ mộng bằng bạc, dưới mỗi tấm có hai lỗ mộng. 31 Họ làm năm cây xà-ngang bằng gỗ si-tim cặp mấy tấm ván về phía bên nầy của đền-tạm, 32 năm cây xà-ngang khác về phía bên kia, và năm cây xà-ngang khác nữa về phía sau đền-tạm, tức là phía tây. 33 Họ làm cây xà-ngang giữa, đặng lòn qua thân giữa các tấm ván từ đầu nầy đến đầu kia, 34 và bọc vàng mấy tấm ván. Họ làm các khoen của ván bằng vàng, đặng xỏ xà-ngang qua, và bọc vàng các cây xà-ngang.

35 Họ lại chế một bức màn bằng chỉ tím, đỏ điều, đỏ sặm, và vải gai đậu mịn, thêu hình chê-ru-bin cực-xảo, 36 rồi làm bốn cây trụ bằng gỗ si-tim, bọc vàng, cùng đinh bằng vàng; đúc bốn lỗ trụ bằng bạc cho mấy cây trụ đó.

37 Họ cũng chế cho cửa vào Trại một tấm màn bằng chỉ tím, đỏ điều, đỏ sặm, và vải gai đậu mịn: ấy là một công-việc thêu-thùa. 38 Họ cũng làm năm cây trụ cùng đinh, rồi bọc vàng trên đầu trụ, và các cây nuông; còn năm lỗ trụ thì bằng đồng.

Đóng hòm bảng-chứng

37   1 Đoạn, Bết-sa-lê-ên đóng hòm bằng cây si-tim, bề dài hai thước rưỡi, bề ngang một thước rưỡi, và bề cao một thước rưỡi. 2 Người bọc vàng ròng bề trong và bề ngoài, cùng chạy đường viền chung-quanh. 3 Đúc bốn cái khoen vàng đặng gắn bốn góc: hai cái bên hông nầy, hai cái bên hông kia. 4 Người cũng chuốt các đòn bằng cây si-tim, bọc vàng; 5 rồi xỏ đòn đó vào khoen hai bên hông, đặng khiêng hòm.

Làm nắp thi-ân

6 Người cũng làm một cái nắp thi-ân bằng vàng ròng, bề dài hai thước rưỡi, bề ngang một thước rưỡi. 7 Làm hai tượng chê-ru-bin bằng vàng đánh giát để nơi hai đầu nắp thi-ân, 8 một tượng ở đầu nầy và một tượng ở đầu kia, ló ra nơi hai đầu nắp. 9 Hai chê-ru-bin sè cánh ra che trên nắp thi-ân, đối-diện nhau và xây mặt vào nắp thi-ân.

Đóng bàn để bánh trần-thiết

10 Người cũng đóng một cái bàn bằng cây si-tim; bề dài hai thước, bề ngang một thước, bề cao một thước rưỡi; 11 bọc bằng vàng ròng, và chạy một đường viền chung-quanh. 12 Lại cũng lên be cho tứ-vi bàn cao chừng bốn ngón tay, và chạy cho be một đường viền vàng. 13 Người đúc bốn cái khoen vàng tra vào bốn góc, tại nơi chơn bàn. 14 Các khoen ở gần nơi be để xỏ đòn vào, đặng khiêng bàn; 15 người chuốt đòn bằng cây si-tim, bọc vàng, đặng khiêng bàn. 16 Lại cũng lấy vàng ròng mà làm các đồ-dùng bày trên bàn: dĩa, chén, ly, và chậu, để dùng làm lễ quán.

Chơn-đèn

17 Người cũng làm chơn-đèn bằng vàng ròng; cái chơn, cái thân, cái đài, cái bầu, và cái hoa đều làm ra bằng vàng đánh giát. 18 Hai bên thân đèn có sáu nhánh nứt ra, ba nhánh ở bên nầy và ba nhánh ở bên kia. 19 Trong sáu nhánh nứt ra trên thân chơn-đèn, mỗi nhánh đều có ba cái đài hình như hột hạnh-nhơn, cùng bầu và hoa. 20 Trên thân chơn-đèn lại cũng có bốn cái đài hình như hột hạnh-nhơn, cùng bầu và hoa. 21 Trong sáu nhánh từ thân chơn-đèn nứt ra, hễ cứ mỗi hai nhánh, thì dưới có một cái bầu. 22 Bầu và nhánh của chơn-đèn đều bằng vàng ròng nguyên miếng đánh giát. 23 Người cũng làm bảy cái thếp đèn, kéo bắt tim và đồ đựng tàn bằng vàng ròng. 24 Người dùng một ta-lâng vàng ròng, mà làm chơn-đèn và các đồ phụ-tùng của chơn-đèn.

Bàn-thờ xông hương

25 Người cũng đóng một cái bàn-thờ xông hương bằng cây si-tim, hình vuông, bề dài một thước, bề ngang một thước, và bề cao hai thước. Bàn-thờ có bốn sừng ló ra. 26 Người bọc vàng ròng trên mặt, bốn cạnh chung-quanh và các sừng; tứ-vi cũng chạy đường viền vàng. 27 Dưới đường viền đó, nơi hai bên góc, người làm hai cái khoen vàng để xỏ đòn, đặng khiêng. 28 Người chuốt đòn bằng cây si-tim và bọc vàng.

Dầu thánh và hương

29 Người cũng chế dầu thánh để xức, và hương thanh-sạch bằng các hương-liệu theo nghề thợ chế-hương.

Đóng bàn-thờ của-lễ thiêu

38   1 Người cũng đóng bàn-thờ về của-lễ thiêu bằng cây si-tim, hình vuông, bề dài năm thước, bề ngang năm thước và bề cao ba thước. 2 Người làm nơi bốn góc bàn-thờ những sừng ló ra, bọc đồng. 3 Rồi làm các đồ phụ-tùng của bàn-thờ bằng đồng: chảo nhỏ, vá, ảng, nỉa, và bình hương. 4 Lại làm một tấm rá bằng lưới đồng để dưới thành bàn-thờ, từ chơn lên đến ngang giữa, 5 và đúc cái khoen cho bốn góc rá lưới đồng, đặng xỏ đòn khiêng. 6 Đoạn chuốt đòn khiêng bằng cây si-tim, và bọc đồng; 7 xỏ đòn vào khoen nơi hai bên bàn-thờ, đặng khiêng bàn đi. Người đóng bàn-thờ bằng ván, trống-bộng.

Cái thùng bằng đồng

8 Người dùng các tấm gương của mấy người đờn-bà hầu việc nơi cửa hội-mạc, chế ra một cái thùng và chơn thùng bằng đồng.

Hành-lang của đền-tạm

9 Người cũng làm hành-lang: về phía nam mấy bức bố-vi của hành-lang bằng vải gai đậu mịn, dài trăm thước; 10 hai chục cây trụ và hai chục lỗ trụ bằng đồng, đinh và nuông trụ bằng bạc. 11 Về phía bắc, cũng một trăm thước bố-vi, hai chục cây trụ và hai chục lỗ trụ bằng đồng, đinh và nuông trụ bằng bạc. 12 Về phía tây, năm chục thước bố-vi, mười cây trụ, và mười lỗ trụ bằng đồng, đinh và nuông trụ bằng bạc. 13 Về phía trước, là phía đông, cũng năm chục thước: 14 nghĩa là bên hữu của hành-lang mười lăm thước bố-vi, ba cây trụ và ba lỗ trụ; 15 bên tả của hành-lang cũng mười lăm thước bố-vi, ba cây trụ và ba lỗ trụ. 16 Hết thảy bố-vi của hành-lang ở chung-quanh đều bằng vải gai đậu mịn; 17 các lỗ trụ bằng đồng, đinh, nuông bằng bạc, và đầu trụ bọc bạc. Hết thảy trụ của hành-lang đều nhờ có nuông bạc chắp với nhau. 18 Tấm màn nơi cửa hành-lang làm thêu-thùa bằng chỉ tím, đỏ điều, đỏ sặm, và vải gai đậu mịn; bề dài hai chục thước, bề cao (tùy theo bề khổ của vải) năm thước, đồng cỡ với bề cao của các bố-vi chung-quanh hành-lang. 19 Bốn cây trụ và bốn lỗ trụ bằng đồng, đinh, đồ bọc đầu trụ, và những nuông đều bằng bạc. 20 Các nọc của đền-tạm và của hành-lang chung-quanh đều bằng đồng.

Sổ tổng-cộng về đền-tạm

21 Đây là sổ tổng-cộng về đền-tạm, là đền-tạm chứng-cớ theo lịnh-truyền của Môi-se biểu người Lê-vi làm ra, nhờ Y-tha-ma, con trai của thầy tế-lễ cả A-rôn, cai-quản. 22 Bết-sa-lê-ên, con trai U-ri, cháu Hu-rơ, thuộc về chi-phái Giu-đa, làm theo mọi đều Đức Giê-hô-va đã phán dặn Môi-se, 23 và kẻ giúp người là Ô-hô-li-áp, con trai A-hi-sa-mạc, thuộc về chi-phái Đan, làm thợ chạm, kẻ bày vẽ, thợ thêu-thùa bằng chỉ tím, đỏ điều, đỏ sặm, và bằng chỉ gai mịn.

24 Hết thảy vàng đã hiệp dùng vào các công-việc nơi thánh (ấy là vàng dâng) được hai mươi chín ta-lâng, bảy trăm ba chục siếc-lơ, theo siếc-lơ của nơi thánh. 25 Bạc của mấy người hội-chúng có kể sổ tổng-cộng được một trăm ta-lâng, một ngàn bảy trăm bảy mươi lăm siếc-lơ, theo siếc-lơ của nơi thánh. 26 Hết thảy người nào có kể sổ, từ hai mươi tuổi sắp lên, nghĩa là sáu trăm ba ngàn năm trăm năm chục người, mỗi người nộp nửa siếc-lơ, theo siếc-lơ của nơi thánh. 27 Vậy, phải một trăm ta-lâng bạc đặng đúc các lỗ trụ của nơi thánh, và lỗ trụ màn; một trăm ta-lâng cho một trăm lỗ trụ, tức một ta-lâng vào mỗi lỗ trụ. 28 Còn một ngàn bảy trăm bảy mươi lăm siếc-lơ dư lại, thì dùng làm đinh trụ, bọc đầu trụ và lấy nuông chắp các trụ với nhau. 29 Đồng đem dâng cộng được bảy chục ta-lâng, hai ngàn bốn trăm siếc-lơ. 30 Họ dùng đồng đó làm lỗ trụ của cửa hội-mạc, bàn-thờ bằng đồng, rá bằng đồng, các đồ phụ-tùng của bàn-thờ; 31 các lỗ trụ của hành-lang chung-quanh, các lỗ trụ của cửa hành-lang, các nọc của đền-tạm, và các nọc của hành-lang chung-quanh.