Ngày 04 tháng Hai

< Lui     Trang Lịch     Tới >

Đọc Dân-số ký 3:1-13; 8:5 – 8:22; 7:1-8:4

Người Lê-vi Được Chọn để Phục vụ

Sau khi đền tạm được dựng xong, nhiệm vụ duy trì các công việc phục vụ trong đền tạm trở nên quá nặng nề đối với A-rôn và hai người con trai còn lại của ông. Vì vậy, việc chọn thêm người để thực hiện các công việc tôn giáo đặc biệt này là điều cần thiết.

Theo lẽ tự nhiên, Đức Chúa Trời có thể đã chọn con đầu lòng của mỗi gia đình, bởi họ vốn đã được dâng riêng cho Ngài. Tuy nhiên, thay vì làm điều đó, Ngài đã chọn toàn bộ chi tộc Lê-vi để hỗ trợ A-rôn trong chức tế lễ và phục vụ đền tạm.

Mặc dù không có lý do nào được nêu rõ về việc tại sao người Lê-vi được chọn, nhưng có thể vì một trong ba lý do sau:

  • Họ là chi tộc nhỏ nhất nên dễ dàng được chu cấp bằng các của lễ hiện có
  • Họ đã chứng tỏ lòng trung thành với Đức Chúa Trời qua việc trừng phạt những người thờ con bò vàng
  • Họ có mối liên hệ huyết thống với Môi-se và A-rôn, đều là con cháu của Lê-vi

Trong sách Dân số ký có ghi chép chi tiết về việc chọn lựa người Lê-vi này, bắt đầu bằng phần giới thiệu về A-rôn và các con trai của ông.

Sự kê sổ và thứ-tự về việc đóng trại của người Lê-vi

3   1 Nầy là dòng-dõi của A-rôn và Môi-se, về ngày Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se tại trên núi Si-na-i.

2 Nầy là tên các con trai A-rôn: Trưởng-nam là Na-đáp, A-bi-hu, Ê-lê-a-sa, và Y-tha-ma. 3 Đó là tên các con trai A-rôn, tức những thầy tế-lễ đã chịu phép xức dầu, và được lập lên để làm chức tế-lễ. 4 Vả, Na-đáp và A-bi-hu đã thác trước mặt Đức Giê-hô-va khi hai người dâng một thứ lửa lạ trước mặt Đức Giê-hô-va tại trong đồng vắng Si-na-i. Hai người nầy không có con. Còn Ê-lê-a-sa và Y-tha-ma làm chức tế-lễ trước mặt A-rôn, là cha mình.

5 Đức Giê-hô-va bèn phán cùng Môi-se rằng: 6 Hãy khiến chi-phái Lê-vi lại gần, đặt trước thầy tế-lễ A-rôn, để người Lê-vi phục-sự người. 7 Người Lê-vi sẽ giữ chức-phận của người và chức-phận của cả hội-chúng về trước hội-mạc mà làm những công-việc của đền-tạm. 8 Cũng phải coi-sóc hết thảy đồ-đạc của hội-mạc và mọi vật chi dân Y-sơ-ra-ên giao cho đặng dùng làm công-việc của đền-tạm. 9 Vậy, ngươi phải giao người Lê-vi cho A-rôn và cho các con trai người; vì đã lấy họ từ trong vòng dân Y-sơ-ra-ên mà ban trọn cho A-rôn rồi. 10 Vậy, ngươi sẽ lập A-rôn và các con trai người, để làm chức tế-lễ; người ngoại đến gần sẽ bị xử-tử.

11 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: 12 Nầy, từ giữa dân Y-sơ-ra-ên ta chọn lấy người Lê-vi thế cho hết thảy con đầu lòng của dân Y-sơ-ra-ên; vậy, người Lê-vi sẽ thuộc về ta. 13 Vì hết thảy con đầu lòng đều thuộc về ta; ngày xưa khi ta hành-hại các con đầu lòng trong xứ Ê-díp-tô, ta đã biệt riêng ra thánh cho ta hết thảy con đầu lòng trong Y-sơ-ra-ên, bất-luận loài người hay thú-vật; chúng nó đều sẽ thuộc về ta. Ta là Đức Giê-hô-va. (Dân số ký 3:11-13 viết y như Dân số ký 8:16-18)

Lễ biệt người Lê-vi riêng ra thánh

8   5 Đoạn, Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: 6 Hãy chọn lấy người Lê-vi ở trong vòng dân Y-sơ-ra-ên và dọn cho họ được sạch. 7 Nầy là đều ngươi phải làm cho họ được sạch: Ngươi phải rảy nước rửa tội trên mình họ; họ phải cạo hết thảy cùng mình, giặt quần áo, và dọn cho mình được sạch. 8 Đoạn, họ phải bắt một con bò đực với của-lễ chay bằng bột lọc nhồi dầu cặp theo; còn ngươi bắt một con bò đực to thứ nhì dùng về của-lễ chuộc tội; 9 rồi biểu người Lê-vi đến gần trước hội-mạc và nhóm cả hội-chúng Y-sơ-ra-ên. 10 Vậy, ngươi phải biểu người Lê-vi đến gần trước mặt Đức Giê-hô-va, rồi dân Y-sơ-ra-ên sẽ đặt tay trên mình người Lê-vi. 11 A-rôn sẽ dâng người Lê-vi làm của-lễ do phần dân Y-sơ-ra-ên mà đưa qua đưa lại trước mặt Đức Giê-hô-va, và họ sẽ được phần làm công-việc của Đức Giê-hô-va. 12 Đoạn, người Lê-vi sẽ đặt tay trên đầu hai con bò đực, và ngươi phải dâng con nầy làm của-lễ chuộc tội và con kia làm của-lễ thiêu cho Đức Giê-hô-va, để làm lễ chuộc tội cho người Lê-vi. 13 Kế đó, ngươi phải biểu người Lê-vi đứng trước mặt A-rôn và các con trai người, rồi dâng họ như một của-lễ đưa qua đưa lại cho Đức Giê-hô-va. 14 Như vậy ngươi sẽ biệt riêng ra người Lê-vi với dân Y-sơ-ra-ên, và người Lê-vi sẽ thuộc về ta.

15 Sau việc ấy, người Lê-vi sẽ đến đặng làm công-việc của hội-mạc. Ấy, ngươi sẽ làm cho họ được sạch và dâng như của-lễ đưa qua đưa lại vậy.

19 Bởi trong dân Y-sơ-ra-ên ta đã chọn người Lê-vi ban trọn cho A-rôn và các con trai người, đặng làm công-việc của dân Y-sơ-ra-ên ở trong hội-mạc, cùng làm lễ chuộc tội cho dân Y-sơ-ra-ên, hầu cho khi họ đến gần nơi thánh, chẳng có tai-hại chi trong dân Y-sơ-ra-ên.

23 Đoạn, Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: 24 Nầy là lệ-định về người Lê-vi: Từ hai mươi lăm tuổi sắp lên, người Lê-vi phải đến nhập ban trong công-việc của hội-mạc. 25 Nhưng đến năm mươi tuổi, người sẽ ra ban, chẳng làm công-việc nữa; 26 người phải cứ giúp-đỡ anh em mình trong hội-mạc, coi-sóc việc chi đã giao cho, nhưng không nên làm công-việc nữa. Ngươi phải đối cùng người Lê-vi mà làm như vậy về chức-phận của họ.

20 Vậy, Môi-se, A-rôn, và cả hội dân Y-sơ-ra-ên đối cùng người Lê-vi làm hết mọi đều Đức Giê-hô-va đã phán dặn Môi-se về họ; dân Y-sơ-ra-ên đối cùng người Lê-vi đều làm như vậy. 21 Người Lê-vi bèn làm cho mình được sạch khỏi tội, và giặt áo-xống mình; rồi A-rôn dâng họ như của-lễ đưa qua đưa lại trước mặt Đức Giê-hô-va, và làm lễ chuộc tội cho, để dọn họ được sạch. 22 Sau rồi, người Lê-vi đến đặng làm công-việc mình trong hội-mạc trước mặt A-rôn và trước mặt các con trai người. Đối cùng người Lê-vi, người ta làm y như Đức Giê-hô-va đã phán dặn Môi-se về họ.

Của Lễ từ các Chi Tộc

Trong sách Dân số ký ghi chép việc các chi tộc dâng của lễ để cung hiến đền tạm và bàn thờ. Đây là một quy trình có tổ chức và kéo dài:

Ngày đầu tiên, khi đền tạm vừa được dựng xong, các lãnh đạo bắt đầu mang của lễ đến. Sau đó, việc dâng của lễ được tiếp tục trong 12 ngày liên tiếp, mỗi ngày một chi tộc.

Thủ lĩnh của từng chi tộc sẽ đại diện cho toàn dân trong chi tộc của mình để mang của lễ đến dâng. Điều này cho thấy sự đồng lòng và trật tự trong việc thờ phượng của dân Y-sơ-ra-ên, khi mỗi chi tộc đều có phần đóng góp của mình trong việc cung hiến đền tạm và bàn thờ cho Đức Chúa Trời.

7   1 Khi Môi-se đã dựng xong đền-tạm, và đã xức dầu cùng biệt riêng ra thánh hết thảy đồ-đạc của đền-tạm, xức dầu và biệt riêng ra thánh bàn-thờ và hết thảy đồ-đạc của bàn-thờ rồi, 2 thì các trưởng-tộc của Y-sơ-ra-ên, tức là các quan-trưởng về những chi-phái mà đã cai-trị cuộc tu-bộ dân, đều đem dâng lễ-vật của mình. 3 Vậy, các quan-trưởng dẫn lễ-vật mình đến trước mặt Đức Giê-hô-va: Sáu xe-cộ, hình như cái kiệu, và mười hai con bò đực, nghĩa là mỗi hai quan-trưởng đồng dâng một xe-cộ, và mỗi một người dâng một con bò đực; họ dâng lễ-vật đó trước đền-tạm.

4 Đức Giê-hô-va bèn phán cùng Môi-se răng: Hãy thâu nhận các lễ-vật của những người nầy, để dùng vào công-việc hội-mạc; và hãy giao cho người Lê-vi, 5 tức là cho mọi người tùy theo chức-phận mình. 6 Vậy, Môi-se bèn nhận lấy các xe-cộ và những bò đực, giao cho người Lê-vi. 7 Người giao cho con-cháu Ghẹt-sôn hai xe-cộ và bốn con bò đực, tùy theo chúc-phận của họ. 8 Người giao cho con-cháu Mê-ra-ri bốn xe-cộ và tám con bò đực, tùy theo chức-phận của họ, có Y-tha-ma, con trai thầy tế-lễ A-rôn, làm quản-lý. 9 Nhưng người không có giao chi cho con-cháu Kê-hát, vì họ mắc phần công-việc về những vật thánh, và gánh-vác những vật đó trên vai mình.

10 Trong ngày bàn-thờ được xức dầu, các quan-trưởng dâng lễ-vật mình trước bàn-thờ về cuộc khánh-thành nó. 11 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: Các quan-trưởng phải đem lễ-vật mình về cuộc khánh-thành bàn-thờ, người nầy thì ngày nay, người kia thì ngày kia.

12 Người dâng lễ-vật mình ngày đầu, là Na-ha-sôn, con trai của A-mi-na-đáp, thuộc về chi-phái Giu-đa. 13 Lễ-vật người là một cái dĩa bạc nặng một trăm ba mươi siếc-lơ, một cái chậu bạc nặng bảy chục siếc-lơ, theo siếc-lơ của nơi thánh; cả hai cái đều đầy bột lọc nhồi dầu, dùng về của-lễ chay; 14 một cái chén vàng nặng mười siếc-lơ, đầy thuốc thơm; 15 một con bò đực tơ, một con chiên đực, một con chiên con giáp năm, dùng về của-lễ thiêu; 16 một con dê đực dùng về của-lễ chuộc tội; 17 và về của-lễ thù-ân, hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm con chiên con giáp năm. Đó là lễ-vật của Na-ha-sôn, con trai A-mi-na-đáp.

18 Ngày thứ hai, Na-tha-na-ên, con trai của Xu-a, quan-trưởng Y-sa-ca, dâng lễ-vật mình. 19 Người dâng một cái dĩa bạc nặng một trăm ba mươi siếc-lơ, một cái chậu bạc nặng bảy chục siếc-lơ, theo siếc-lơ của nơi thánh, cả hai cái đều đầy bột lọc nhồi dầu, dùng về của-lễ chay; 20 một cái chén vàng nặng mười siếc-lơ, đầy thuốc thơm; 21 một con bò đực tơ, một con chiên đực, một con chiên con giáp năm, dùng về của-lễ thiêu; 22 một con dê đực dùng về của-lễ chuộc tội; 23 và về của-lễ thù-ân, hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm con chiên con giáp năm. Đó là lễ-vật của Na-tha-na-ên, con trai Xu-a.

24 Ngày thứ ba, đến quan-trưởng của con-cháu Sa-bu-lôn, là Ê-li-áp, con trai của Hê-lôn. 25 Lễ-vật của người là một cái dĩa bạc nặng một trăm ba mươi siếc-lơ, một cái chậu bạc nặng bảy chục siếc-lơ, theo siếc-lơ của nơi thánh; cả hai cái đều đầy bột lọc nhồi dầu, dùng về của-lễ chay; 26 một cái chén vàng nặng mười siếc-lơ, đầy thuốc thơm; 27 một con bò đực tơ, một con chiên đực, một con chiên con giáp năm, dùng về của-lễ thiêu; 28 một con dê đực dùng về của-lễ chuộc tội; 29 và về của-lễ thù-ân, hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm con chiên con giáp năm. Đó là lễ-vật của Ê-li-áp, con trai Hê-lôn.

30 Ngày thứ tư, đến quan-trưởng của con-cháu Ru-bên, là Ê-lít-su, con trai Sê-đêu. 31 Lễ-vật của người là một cái dĩa bạc nặng một trăm ba mươi siếc-lơ, một cái chậu bạc nặng bảy chục siếc-lơ, theo siếc-lơ của nơi thánh; cả hai cái đều đầy bột lọc nhồi dầu, dùng về của-lễ chay; 32 một cái chén vàng nặng mười siếc-lơ, đầy thuốc thơm; 33 một con bò đực tơ, một con chiên đực, một con chiên con giáp năm, dùng về của-lễ thiêu; 34 một con dê đực dùng về của-lễ chuộc tội; 35 và về của-lễ thù-ân, hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm con chiên con giáp năm. Đó là lễ-vật của Ê-lít-su, con trai Sê-đêu.

36 Ngày thứ năm, đến quan-trưởng của con-cháu Si-mê-ôn, là Sê-lu-mi-ên, con trai Xu-ri-ha-đai. 37 Lễ-vật của người là một cái dĩa bạc nặng một trăm ba mươi siếc-lơ, một cái chậu bạc nặng bảy chục siếc-lơ, theo siếc-lơ của nơi thánh; cả hai cái đều đầy bột lọc nhồi dầu, dùng về của-lễ chay; 38 một cái chén vàng nặng mười siếc-lơ, đầy thuốc thơm; 39 một con bò đực tơ, một con chiên đực, một con chiên con giáp năm, dùng về của-lễ thiêu; 40 một con dê đực dùng về của-lễ chuộc tội; 41 và về của-lễ thù-ân, hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm con chiên con giáp năm. Đó là lễ-vật của Sê-lu-mi-ên, con trai Xu-ri-ha-đai.

42 Ngày thứ sáu, đến quan-trưởng của con-cháu Gát, là Ê-li-a-sáp, con trai Đê-u-ên. 43 Lễ-vật của người là một cái dĩa bạc nặng một trăm ba mươi siếc-lơ, một cái chậu bạc nặng bảy chục siếc-lơ, theo siếc-lơ của nơi thánh, cả hai cái đều đầy bột lọc nhồi dầu, dùng về của-lễ chay; 44 một cái chén vàng nặng mười siếc-lơ, đầy thuốc thơm; 45 một con bò đực tơ, một con chiên đực, một con chiên con giáp năm, dùng về của-lễ thiêu; 46 một con dê đực dùng về của-lễ chuộc tội; 47 và về của-lễ thù-ân, hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm con chiên con giáp năm. Đó là lễ-vật của Ê-li-a-sáp, con trai Đê-u-ên.

48 Ngày thứ bảy, đến quan-trưởng của con-cháu Ép-ra-im, là Ê-li-sa-ma, con trai A-mi-hút. 49 Lễ-vật của người là một cái dĩa bạc nặng một trăm ba mươi siếc-lơ, một cái chậu bạc nặng bảy chục siếc-lơ, theo siếc-lơ của nơi thánh, cả hai cái đều đầy bột lọc nhồi dầu, dùng về của-lễ chay; 50 một cái chén vàng nặng mười siếc-lơ, đầy thuốc thơm; 51 một con bò đực tơ, một con chiên đực, một con chiên con giáp năm, dùng về của-lễ thiêu; 52 một con dê đực dùng về của-lễ chuộc tội; 53 và về của-lễ thù-ân, hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm con chiên con giáp năm. Đó là lễ-vật của Ê-li-sa-ma, con trai A-mi-hút.

54 Ngày thứ tám, đến quan-trưởng của con-cháu Ma-na-se, là Ga-ma-li-ên, con trai Phê-đát-su. 55 Lễ-vật của người là một cái dĩa bạc nặng một trăm ba mươi siếc-lơ, một cái chậu bạc nặng bảy chục siếc-lơ, theo siếc-lơ của nơi thánh, cả hai cái đều đầy bột lọc nhồi dầu, dùng về của-lễ chay; 56 một cái chén vàng nặng mười siếc-lơ, đầy thuốc thơm; 57 một con bò đực tơ, một con chiên đực, một con chiên con giáp năm, dùng về của-lễ thiêu; 58 một con dê đực dùng về của-lễ chuộc tội; 59 và về của-lễ thù-ân, hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm con chiên con giáp năm. Đó là lễ-vật của Ga-ma-li-ên, con trai Phê-đát-su.

60 Ngày thứ chín, đến quan-trưởng của con-cháu Bên-gia-min, là A-bi-đan, con trai Ghi-đeo-ni. 61 Lễ-vật của người là một cái dĩa bạc nặng một trăm ba mươi siếc-lơ, một cái chậu bạc nặng bảy chục siếc-lơ, theo siếc-lơ của nơi thánh, cả hai cái đều đầy bột lọc nhồi dầu, dùng về của-lễ chay; 62 một cái chén vàng nặng mười siếc-lơ, đầy thuốc thơm; 63 một con bò đực tơ, một con chiên đực, một con chiên con giáp năm, dùng về của-lễ thiêu; 64 một con dê đực dùng về của-lễ chuộc tội; 65 và về của-lễ thù-ân, hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm con chiên con giáp năm. Đó là lễ-vật của A-bi-đan, con trai Ghi-đeo-ni.

66 Ngày thứ mười, đến quan-trưởng của con cháu Đan, là A-hi-ê-xe, con trai A-mi-sa-đai. 67 Lễ-vật của người là một cái dĩa bạc nặng một trăm ba mươi siếc-lơ, một cái chậu bạc nặng bảy chục siếc-lơ, theo siếc-lơ của nơi thánh, cả hai cái đều đầy bột lọc nhồi dầu, dùng về của-lễ chay; 68 một cái chén vàng nặng mười siếc-lơ, đầy thuốc thơm; 69 một con bò đực tơ, một con chiên đực, một con chiên con giáp năm, dùng về của-lễ thiêu; 70 một con dê đực dùng về của-lễ chuộc tội; 71 và về của-lễ thù-ân, hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con giáp năm. Đó là lễ-vật của A-hi-ê-xe, con trai A-mi-sa-đai.

72 Ngày thứ mười một, đến quan-trưởng của con-cháu A-se, là Pha-ghi-ên, con trai của Óc-ran. 73 Lễ-vật của người là một cái dĩa bạc nặng một trăm ba mươi siếc-lơ, một cái chậu bạc nặng bảy chục siếc-lơ, theo siếc-lơ của nơi thánh, cả hai cái đều đầy bột lọc nhồi dầu, dùng về của-lễ chay; 74 một cái chén vàng nặng mười siếc-lơ, đầy thuốc thơm; 75 một con bò đực tơ, một con chiên đực, một con chiên con giáp năm, dùng về của-lễ thiêu; 76 một con dê đực dùng về của-lễ chuộc tội; 77 và về của-lễ thù-ân, hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm con chiên con giáp năm. Đó là lễ-vật của Pha-ghi-ên, con trai Óc-ran.

78 Ngày thứ mười hai, đến quan-trưởng của con-cháu Nép-ta-li, là A-hi-ra, con trai Ê-nan. 79 Lễ-vật của người là một cái dĩa bạc nặng một trăm ba mươi siếc-lơ, một cái chậu bạc nặng bảy chục siếc-lơ, theo siếc-lơ của nơi thánh, cả hai cái đều đầy bột lọc nhồi dầu, dùng về của-lễ chay; 80 một cái chén vàng nặng mười siếc-lơ, đầy thuốc thơm; 81 một con bò đực tơ, một con chiên đực, một con chiên con giáp năm, dùng về của-lễ thiêu; 82 một con dê đực dùng về của-lễ chuộc tội; 83 và về của-lễ thù-ân, hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm con chiên con giáp năm. Đó là lễ-vật của A-hi-ra, con trai Ê-nan.

84 Ấy là những lễ-vật của các quan-trưởng dân Y-sơ-ra-ên dâng về cuộc khánh-thành bàn-thờ, khi bàn-thờ được xức dầu: Mười hai dĩa bạc, mười hai chậu bạc, mười hai chén vàng; 85 mỗi cái dĩa bạc nặng một trăm ba mươi siếc-lơ, và mỗi cái chậu bạc nặng bảy chục siếc-lơ. Tổng-cọng số bạc của các dĩa và chậu là hai ngàn bốn trăm siếc-lơ, theo siếc-lơ của nơi thánh. 86 Mười hai cái chén vàng đầy thuốc thơm, mỗi cái mười siếc-lơ, theo siếc-lơ của nơi thánh; tổng-cọng số vàng của chén nặng được một trăm hai mươi siếc-lơ. 87 Tổng-cọng số bò đực về của-lễ thiêu là mười hai con, với mười hai con chiên đực, mười hai con chiên con giáp năm, cùng những của-lễ chay cặp theo, và mười hai con dê đực dùng về của-lễ chuộc tội. 88 Tổng-cọng số bò đực về của-lễ thù-ân là hai mươi bốn con với sáu mươi con chiên đực, sáu mươi con dê đực, sáu mươi con chiên con giáp năm. Ấy là lễ-vật dâng về cuộc khánh-thành bàn-thờ, sau khi bàn-thờ được xức dầu rồi.

89 Khi Môi-se vào hội-mạc đặng hầu-chuyện cùng Đức Giê-hô-va, thì người nghe Tiếng nói cùng mình từ trên nắp thi-ân để trên hòm bảng-chứng, ở giữa hai chê-ru-bin; người hầu-chuyện cùng Đức Giê-hô-va vậy.

8   1 Đức Giê-hô-va cũng phán cùng Môi-se rằng: 2 Hãy nói cùng A-rôn: Khi nào ngươi đặt các đèn, thì bảy ngọn đèn phải chiếu trên phía trước chơn-đèn. 3 A-rôn bèn làm như vậy; đặt bảy ngọn đèn trên phía trước chơn-đèn, y như Đức Giê-hô-va đã phán dặn Môi-se. 4 Vả, chơn-đèn đã làm theo cách nầy: làm bằng vàng đánh giát, cho đến cái chơn và những cái hoa đều đánh giát. Ấy vậy, người ta làm chơn-đèn theo như kiểu mà Đức Giê-hô-va đã chỉ cho Môi-se xem.