Đọc Sáng Thế ký 6:1 - 9:29
SỰ SUY ĐỒI CỦA LOÀI NGƯỜI THÀNH GIAN ÁC
Trong các câu chuyện về Seth, Cain và con cháu của họ có một gợi ý rằng hai nhóm người riêng biệt đã phát triển. Những người thuộc dòng dõi Seth – ví dụ như Enoch – dường như là những người sống công chính trước Chúa. Mặt khác, những người thuộc dòng dõi Cain, tiêu biểu là Lamech kẻ sát nhân, dường như đã suy đồi thành bất chính. Do đó, mặc dù chắc chắn có thể tìm thấy những ngoại lệ cá nhân trong mỗi gia đình mở rộng, nhưng nhìn chung có thể cho rằng dân Seth là người tin kính còn dân Cain thì không tin kính. Tuy nhiên, đến thời điểm này, ký sự dường như chỉ ra rằng “các con trai của Đức Chúa Trời,” có lẽ ám chỉ dân Seth, hoặc dù sao cũng là những người có di sản kính sợ Chúa, giờ đây bắt đầu cưới “các con gái loài người,” không phải vì họ là những người nữ công chính mà chỉ vì họ đẹp về thể xác. Kết quả hiển nhiên là sự pha trộn giữa người tin kính và không tin kính dẫn đến sự xóa nhòa các ranh giới đạo đức và lối sống công chính. Tình hình tồi tệ đến mức những người cực kỳ gian ác, được gọi là người Nephilim, đã trở thành anh hùng trong dân chúng.
Chỉ mười thế hệ đã trôi qua kể từ khi Adam được tạo dựng theo hình ảnh của Đức Chúa Trời, và tất cả họ đều đã phạm tội, ở mức độ này hay mức độ khác, bằng cách không vâng lời luật đạo đức của Đức Chúa Trời. Với mỗi thế hệ đến sự chối bỏ quyền tối cao và tình yêu của Đức Chúa Trời. Khi giờ đây bắt đầu xuất hiện rằng càng ngày càng nhiều người quay sang gian ác, Đức Chúa Trời có ý định hủy diệt tạo vật của Ngài. Tuy nhiên vẫn còn một số ít người, trong đó có Nô-ê, vẫn đồng đi với Đức Chúa Trời, vì vậy Đức Chúa Trời nhân từ hoãn lại sự hủy diệt thế giới trong 120 năm.
HÔN NHÂN HỖN HỢP MANG LẠI SUY ĐỒI. Khi loài người bắt đầu gia tăng số lượng trên đất và sinh ra những con gái, các con trai của Đức Chúa Trời thấy các con gái loài người xinh đẹp, họ cưới bất cứ người nào họ chọn. (Sáng thế ký 6:1,2)
LOÀI NGƯỜI ĐƯỢC BAN THỜI GIAN ÂN ĐIỂN. Rồi CHÚA phán: “Thần linh ta sẽ không tranh đấu với loài người mãi, vì họ chỉ là xác thịt; đời họ sẽ là một trăm hai mươi năm.” (Sáng thế ký 6:3)
KẺ ÁC ĐƯỢC COI LÀ ANH HÙNG. Những người Nephilim đã có mặt trên đất trong những ngày đó – và cả sau đó nữa – khi các con trai Đức Chúa Trời đến với các con gái loài người và sinh con cái với họ. Họ là những anh hùng thời xưa, những người nổi danh. (Sáng thế ký 6:4)
ĐỨC CHÚA TRỜI BUỒN RẦU VỀ LOÀI NGƯỜI. CHÚA thấy sự gian ác của loài người đã gia tăng trên đất, và mọi ý định trong tâm trí họ luôn luôn chỉ hướng về điều ác. CHÚA hối tiếc đã tạo nên loài người trên đất, và lòng Ngài rất đau buồn. Vì vậy CHÚA phán: “Ta sẽ xóa sạch khỏi mặt đất loài người ta đã tạo nên – cùng với súc vật, các loài bò sát, và chim trời – vì ta hối tiếc đã tạo nên chúng.” Nhưng Nô-ê được ơn trước mắt CHÚA. (Sáng thế ký 6:5-8)
NÔ-Ê VÀ TRẬN LỤT
Vì sự suy đồi của loài người, Đức Chúa Trời đã miễn cưỡng quyết định hủy diệt nhân loại khỏi trái đất. Tuy nhiên vẫn còn một số người công chính gồm gia đình Nô-ê, và Đức Chúa Trời nhìn họ với lòng thương xót. Đức Chúa Trời cảnh báo Nô-ê rằng Ngài sẽ sớm giáng một trận lụt trên đất để hủy diệt mọi sinh vật. Nô-ê được chỉ dẫn đóng một chiếc tàu, hay con tàu, trong đó ông và gia đình mình, cùng với các cặp động vật, sẽ được cứu khỏi sự hủy diệt. Mặc dù chắc chắn bị những người hiếu kỳ chế nhạo, Nô-ê và các con trai ông hành động bởi đức tin và đóng con tàu. Khi mưa bắt đầu rơi và các mạch nước phun lên, gia đình Nô-ê nhanh chóng vào tàu cùng với các loài động vật và chuẩn bị cho sự kiện thảm khốc nhất trong lịch sử trái đất – trận đại hồng thủy.
Trận lụt xảy ra 1656 năm sau sự sáng tạo và sẽ kéo dài hơn một năm. Sau 40 ngày đêm mưa không ngừng, nước sẽ ngập các đỉnh núi hơn 20 feet trước khi bắt đầu rút xuống vào ngày thứ 150. Các ngọn núi sẽ lộ ra một lần nữa vào ngày thứ 224, và một con quạ sẽ được thả ra 40 ngày sau đó trong nỗ lực không thành công để tìm dấu hiệu của sự sống. Sau đó, dường như sau bảy ngày nữa, một con bồ câu sẽ được thả ra mỗi tuần trong ba tuần. Vào tuần thứ hai, bồ câu sẽ trở về với một cành ô-liu, cho Nô-ê thấy dấu hiệu của sự sống mới trên đất, và vào lần thả thứ ba, bồ câu sẽ không trở lại nữa. Tuy nhiên, Nô-ê vẫn ở trong tàu cho đến khi đất hoàn toàn khô ráo. Cuối cùng, sau 370 ngày trong con tàu phi thường chở người và thú vật này, Nô-ê và gia đình ông sẽ bước ra đến một cuộc sống mới với những phước lành của Đức Chúa Trời.
NÔ-Ê ĐƯỢC XEM LÀ NGƯỜI CÔNG CHÍNH. Đây là câu chuyện về Nô-ê và gia đình ông. Nô-ê là người công chính, không chê trách được giữa những người đương thời, và ông bước đi với Đức Chúa Trời. Nô-ê có ba con trai: Sem, Ham và Gia-phết. (Sáng 6:9,10)
CHỈ DẪN VỀ VIỆC ĐÓNG TÀU. Lúc bấy giờ đất đã bại hoại trước mặt Đức Chúa Trời và đầy bạo lực. Đức Chúa Trời thấy đất đã trở nên bại hoại như thế nào, vì mọi người trên đất đã làm bại hoại đường lối mình. Vì vậy Đức Chúa Trời phán với Nô-ê: “Ta sẽ chấm dứt mọi người, vì đất đầy dẫy bạo lực vì họ. Ta chắc chắn sẽ hủy diệt họ cùng với đất. Hãy đóng cho mình một chiếc tàu bằng gỗ bách; làm các phòng trong tàu và trát nhựa bên trong lẫn bên ngoài. Đây là cách ngươi sẽ đóng nó: Tàu dài ba trăm cu-bít, rộng năm mươi cu-bít và cao ba mươi cu-bít. Hãy làm mái che cho tàu, để phía trên một khoảng hở cao một cu-bít. Đặt cửa tàu ở bên hông và làm các tầng dưới, giữa và trên. (Sáng 6:11-16)
KẾ HOẠCH CỨU NÔ-Ê. Ta sẽ mang nước lụt đến trên đất để hủy diệt mọi sinh vật có hơi thở sự sống dưới bầu trời. Mọi vật trên đất sẽ chết. Nhưng ta sẽ lập giao ước của ta với ngươi, và ngươi sẽ vào tàu – ngươi và các con trai ngươi, vợ ngươi và vợ của các con trai ngươi. Ngươi phải đem vào tàu hai con của mọi sinh vật, đực và cái, để giữ
chúng sống cùng ngươi. Mỗi loại chim, mỗi loại thú và mỗi loại sinh vật di chuyển trên mặt đất sẽ đến với ngươi để được giữ sống. Ngươi hãy lấy mọi thứ thức ăn để ăn và tích trữ làm lương thực cho ngươi và cho chúng. (Sáng 6:17-21)
NÔ-Ê ĐÓNG TÀU. Nô-ê làm mọi điều đúng như Đức Chúa Trời truyền dạy. (Sáng 6:22)
NHỮNG CHỈ DẪN CUỐI CÙNG CỦA CHÚA. Đức Chúa phán với Nô-ê: “Ngươi và cả gia đình hãy vào tàu, vì Ta thấy ngươi là người công chính trong thế hệ này. Hãy đem theo bảy đôi của mỗi loài vật sạch, đực và cái, và một đôi của mỗi loài vật không sạch, đực và cái, và cũng bảy đôi của mỗi loài chim, đực và cái, để giữ nòi giống chúng sống trên khắp mặt đất. Bảy ngày nữa Ta sẽ làm mưa xuống đất trong bốn mươi ngày bốn mươi đêm, và Ta sẽ xóa sạch khỏi mặt đất mọi sinh vật Ta đã tạo nên.”
Và Nô-ê làm mọi điều Đức Chúa truyền dạy. (Sáng 7:1-5)
CHUẨN BỊ TUẦN CUỐI CÙNG. Nô-ê được sáu trăm tuổi khi nước lụt tràn trên mặt đất. Nô-ê cùng các con trai, vợ và các con dâu vào tàu để tránh nước lụt. Từng đôi thú vật sạch và không sạch, chim chóc và mọi loài bò trên đất, đực và cái, đến với Nô-ê và vào tàu, như Đức Chúa Trời đã truyền dạy Nô-ê. Sau bảy ngày, nước lụt tràn trên mặt đất. (Sáng 7:6-10)
NƯỚC LỤT BẮT ĐẦU. Vào năm Nô-ê sáu trăm tuổi, tháng hai ngày mười bảy – ngày đó các nguồn nước của vực thẳm vỡ ra, và các cửa sổ trên trời mở ra. Mưa đổ xuống đất bốn mươi ngày bốn mươi đêm. (Sáng 7:11-12) (khoảng năm 3000 – 2500 T.C.)
GIA ĐÌNH NÔ-Ê VÀO TÀU. Chính ngày đó, Nô-ê và các con trai là Sem, Ham và Gia-phết, cùng với vợ Nô-ê và ba người vợ của các con trai, vào tàu. Họ mang theo mọi loài thú hoang theo loại của chúng, mọi loài gia súc theo loại của chúng, mọi loài bò sát trên đất theo loại của chúng, và mọi loài chim theo loại của chúng, tất cả những gì có cánh. Từng đôi của mọi sinh vật có hơi thở sự sống đến với Nô-ê và vào tàu. Những con vật đi vào là đực và cái của mọi loài sinh vật, như Đức Chúa Trời đã truyền cho Nô-ê. Rồi Đức Chúa đóng cửa tàu lại. (Sáng 7:13-16)
SỰ HỦY DIỆT DƯỚI NƯỚC. Trong bốn mươi ngày nước lụt cứ dâng lên trên đất, và khi nước dâng cao, nó nâng con tàu lên cao khỏi mặt đất. Nước dâng lên và tăng nhiều trên mặt đất, và tàu nổi trên mặt nước. Nước dâng rất cao trên mặt đất đến nỗi tất cả các núi cao dưới bầu trời đều bị ngập. Nước dâng lên và phủ các ngọn núi sâu hơn mười lăm cu-bít (khoảng 6.8 mét). Mọi sinh vật di chuyển trên đất đều chết – chim chóc, gia súc, thú hoang, mọi sinh vật bò trên đất, và toàn thể loài người. Mọi vật trên đất khô có hơi thở sự sống trong mũi đều chết. Mọi sinh vật trên mặt đất đều bị xóa sạch; người và thú vật và các loài bò sát và chim chóc đều bị xóa sạch khỏi đất. Chỉ còn lại Nô-ê và những người cùng ở với ông trong tàu. (Sáng 7:17-23)
NƯỚC RÚT SAU 150 NGÀY. Nước dâng ngập mặt đất trong một trăm năm mươi ngày. Nhưng Đức Chúa Trời nhớ đến Nô-ê và mọi thú hoang và gia súc trong tàu với ông, nên Ngài cho một cơn gió thổi qua đất, và nước bắt đầu rút. Các nguồn nước của vực thẳm và các cửa sổ trên trời đã được đóng lại, và mưa từ trời ngừng rơi. Nước dần dần rút khỏi mặt đất. Vào cuối một trăm năm mươi ngày, nước đã rút xuống, và vào ngày mười bảy tháng bảy, tàu dừng lại trên dãy núi A-ra-rát. (Sáng 7:24-8:4)
THẤY ĐỈNH NÚI VÀO NGÀY 224. Nước tiếp tục rút xuống cho đến tháng mười, và vào ngày đầu tiên của tháng mười, các đỉnh núi đã trở nên có thể nhìn thấy. (Sáng 8:5)
QUẠ ĐƯỢC THẢ RA VÀO NGÀY 264. Sau bốn mươi ngày, Nô-ê mở cửa sổ ông đã làm trên tàu và thả một con quạ ra. Nó cứ bay đi bay lại cho đến khi nước rút khỏi mặt đất. (Sáng 8:6-7)
CHIM BỒ CÂU ĐƯỢC THẢ RA VÀO NGÀY 271. Sau đó ông thả một con chim bồ câu ra để xem nước đã rút khỏi mặt đất chưa. Nhưng chim bồ câu không tìm được chỗ đậu vì nước vẫn còn phủ khắp mặt đất, nên nó bay trở về tàu với Nô-ê. Ông đưa tay ra và đón nó vào trong tàu. (Sáng 8:8-9)
CÀNH CÂY ĐƯỢC MANG VỀ VÀO NGÀY 278. Ông đợi thêm bảy ngày nữa và lại thả chim bồ câu ra khỏi tàu. Khi chim bồ câu trở về với ông vào buổi chiều, trong mỏ nó có một cành ô-liu tươi! Vậy Nô-ê biết rằng nước đã rút khỏi mặt đất. (Sáng 8:10-11)
CHIM BỒ CÂU RỜI ĐI VÀO NGÀY 285. Ông đợi thêm bảy ngày nữa và thả chim bồ câu ra, nhưng lần này nó không trở về với ông nữa. (Sáng 8:12)
MẶT ĐẤT KHÔ VÀO NGÀY 314. Vào ngày đầu tiên của tháng đầu tiên năm sáu trăm lẻ một của Nô-ê, nước đã rút khỏi mặt đất. Nô-ê mở mui tàu ra và thấy rằng mặt đất đã khô. (Sáng 8:13)
NÔ-Ê ĐƯỢC GỌI RA SAU 370 NGÀY. Đến ngày hai mươi bảy của tháng hai, đất đã hoàn toàn khô ráo. Rồi Đức Chúa Trời phán với Nô-ê:
“Hãy ra khỏi tàu, ngươi và vợ ngươi, các con trai và vợ của chúng. Hãy đem ra mọi loài sinh vật đang ở với ngươi—chim chóc, thú vật, và mọi loài bò sát trên đất—để chúng có thể sinh sôi nảy nở trên đất và tăng số lượng trên đó.”
Vậy Nô-ê đi ra, cùng với các con trai, vợ và các con dâu. Mọi loài thú vật và sinh vật bò trên đất, và mọi loài chim—tất cả những gì di chuyển trên đất—đều ra khỏi tàu, từng loài một. (Sáng 8:14-19)
NÔ-Ê DÂNG TẾ LỄ. Sau đó Nô-ê lập một bàn thờ cho Đức Chúa và, lấy một số từ mọi loài thú vật sạch và chim sạch, ông dâng các tế lễ thiêu trên đó. (Sáng 8:20)
ĐỨC CHÚA LẬP GIAO ƯỚC. Đức Chúa ngửi mùi thơm dễ chịu và phán trong lòng: “Ta sẽ không bao giờ nguyền rủa đất vì loài người nữa. dù mọi khuynh hướng của lòng người đều xấu xa từ thuở nhỏ. Ta sẽ không bao giờ hủy diệt mọi sinh vật như Ta đã làm.”
"Chừng nào đất còn,
Thì mùa gieo mùa gặt,
Lạnh và nóng,
Mùa hạ và mùa đông,
Ngày và đêm
Sẽ không bao giờ ngừng.” (Sáng 8:21,22)
TÁI SINH CỦA LOÀI NGƯỜI. Rồi Đức Chúa Trời ban phước cho Nô-ê và các con trai ông, phán rằng: “Hãy sinh sản, tăng số và làm đầy dẫy đất. Mọi loài thú trên đất, mọi loài chim trên trời, mọi loài động vật bò trên đất và mọi loài cá dưới biển sẽ kinh sợ các ngươi; chúng được trao vào tay các ngươi. (Sáng 9:1,2)
CHỈ DẪN VỀ THỰC PHẨM. Mọi vật sống và di chuyển sẽ là thức ăn cho các ngươi. Như Ta đã ban cho các ngươi cây cỏ xanh, nay Ta ban cho các ngươi tất cả.
“Nhưng các ngươi không được ăn thịt còn máu trong đó. (Sáng 9:3-4)
LUẬT VỀ MẠNG ĐỀN MẠNG. Về huyết mạng các ngươi, Ta chắc chắn sẽ đòi sự khai trình. Ta sẽ đòi mọi con thú phải khai trình. Và từ mỗi người, Ta cũng sẽ đòi sự khai trình về mạng sống của người khác.
“Ai làm đổ máu người,
Thì máu kẻ ấy sẽ bị người làm đổ;
Vì Đức Chúa Trời đã dựng nên loài người
Theo hình ảnh của Ngài.
Còn các ngươi, hãy sinh sản và tăng số; hãy sinh sôi trên đất và gia tăng trên đó.” (Sáng 9:5-7)
GIAO ƯỚC CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI. Rồi Đức Chúa Trời phán với Nô-ê và các con trai đang ở với ông: “Này, Ta lập giao ước của Ta với các ngươi và dòng dõi các ngươi, và với mọi sinh vật đã ở với các ngươi—chim chóc, gia súc và thú hoang, tất cả những gì ra khỏi tàu với các ngươi—mọi sinh vật trên đất. Ta lập giao ước với các ngươi: Sẽ không bao giờ có sinh vật nào bị tiêu diệt bởi nước lụt nữa; sẽ không bao giờ có nước lụt để hủy diệt đất nữa.” (Sáng 9:8-11)
CẦU VỒNG LÀ DẤU HIỆU CỦA GIAO ƯỚC. Đức Chúa Trời phán: “Đây là dấu hiệu của giao ước Ta lập giữa Ta với các ngươi và mọi sinh vật với các ngươi, một giao ước cho mọi thế hệ mai sau: Ta đặt cầu vồng của Ta trên mây, nó sẽ là dấu hiệu của giao ước giữa Ta và trái đất. Khi Ta cho mây kéo đến trên đất và cầu vồng xuất hiện trong mây, Ta sẽ nhớ lại giao ước của Ta giữa Ta với các ngươi và mọi sinh vật của mọi loài. Nước sẽ không bao giờ trở thành lụt để tiêu diệt mọi sinh vật nữa. Khi cầu vồng xuất hiện trong mây, Ta sẽ nhìn thấy nó và nhớ đến giao ước đời đời giữa Đức Chúa Trời và mọi sinh vật của mọi loài trên đất.”
Vậy Đức Chúa Trời phán với Nô-ê: “Đây là dấu hiệu của giao ước Ta đã lập giữa Ta và mọi sinh vật trên đất.” (Sáng 9:12-17).
Tình Trạng Tội Lỗi của Loài Người Vẫn Còn
Điều Đức Chúa Trời thực hiện trong trận lụt là sự tiêu diệt một loài người đồi bại và suy đồi. Ngay cả những truyền thuyết cổ xưa như “Sử Thi Gilgamesh” của người Ba-by-lôn cổ đại cũng xác nhận việc chấp nhận một trận đại hồng thủy phi thường như vậy. Ngoài bối cảnh lịch sử của nó, trận lụt còn là biểu tượng của sự hủy diệt của tội lỗi và ân điển của Đức Chúa Trời trong việc cứu những người sẽ sống bởi đức tin thông qua đời sống công chính.
Nhưng bản chất con người thậm chí trong dòng dõi công chính của gia đình Nô-ê vẫn như vậy đến nỗi tội lỗi sớm tìm được đường vào cuộc sống của ngay cả những người được cứu trong trận lụt. Để ghi lại tình trạng sa ngã liên tục của con người, sách Sáng Thế Ký ghi lại một sự việc trong đó Nô-ê uống rượu say, và Ham tỏ ra rất bất kính với cha mình, Nô-ê, khi thấy ông không chỉ say mà còn trần truồng.
Phản ứng của Nô-ê khi biết về sự bất kính của Ham là thốt lên lời nguyền rủa chống lại con trai của Ham là Ca-na-an—một lời nguyền được xem như là lời tiên tri về sự nô lệ của con cháu Ham. Khi văn bản Kinh Thánh tiếp tục, sẽ thấy rằng con cháu của Ca-na-an, được biết đến là người Ca-na-an, sẽ cùng nguồn gốc dân tộc với những người được biết đến là dân Y-sơ-ra-ên, và thực sự đôi khi sẽ bị nô lệ cho con cháu của Sem và Gia-phết.
CÁC CON TRAI CỦA NÔ-Ê. Các con trai của Nô-ê ra khỏi tàu là Sem, Ham và Gia-phết. (Ham là cha của Ca-na-an.) Đây là ba con trai của Nô-ê, và từ họ mà có những người tản mác khắp đất. (Sáng 9:18,19)
HAM BẤT KÍNH VỚI NÔ-Ê. Nô-ê, một người làm đất, bắt đầu trồng nho. Khi ông uống rượu nho, ông say và nằm trần truồng trong lều. Ham, cha của Ca-na-an, thấy cha mình trần truồng và kể cho hai anh em ở ngoài. Nhưng Sem và Gia-phết lấy áo choàng vắt ngang vai họ; rồi họ đi giật lùi vào và che thân thể trần truồng của cha. Mặt họ quay đi để không nhìn thấy cha mình trần truồng. (Sáng 9:20-23)
NGUYỀN RỦA CON CHÁU CỦA HAM. Khi Nô-ê tỉnh rượu và biết được điều con trai út đã làm cho mình, ông nói:
“Ca-na-an đáng bị nguyền rủa!
Nó sẽ là đầy tớ hèn mọn
của các anh em nó.”
Ông cũng nói:
“Chúc tụng Đức Chúa, Đức Chúa Trời của Sem!
Nguyện Ca-na-an làm nô lệ cho Sem.
Nguyện Đức Chúa Trời mở rộng lãnh thổ của Gia-phết;
nguyện Gia-phết sống trong lều của Sem,
và nguyện Ca-na-an làm nô lệ cho Gia-phết.” (Sáng 9:24-27)
NÔ-Ê QUA ĐỜI. Sau trận lụt Nô-ê sống thêm 350 năm. Nô-ê sống được tổng cộng 950 năm, rồi qua đời. (Sáng 9:28,29)
Chú thích cuối trang:
Tức là khoảng 135 mét dài, 23 mét rộng và 14 mét cao
Tức là khoảng 45 centimét