Đa-vít hãm thành Giê-ru-sa-lem
(2 Sa-mu-ên) 5 6 Vua và các thủ-hạ kéo đến Giê-ru-sa-lem, đánh dân Giê-bu-sít, vốn ở tại xứ nầy. Chúng nó nói cùng Đa-vít rằng: Ngươi chớ vào đây: những kẻ đui và què, đủ mà xô-đuổi người đi! — nghĩa là muốn nói: Đa-vít sẽ không vào đây được. 7 Nhưng Đa-vít hãm lấy đồn Si-ôn: ấy là thành Đa-vít. 8 Trong ngày đó, Đa-vít nói rằng: Phàm người nào đánh dân Giê-bu-sít, nhào xuống khe kẻ què và kẻ đui chúng nó, tức những kẻ cừu-địch của Đa-vít, (sẽ được làm đầu-mục và quan-trưởng). Bởi cớ đó có tục-ngữ rằng: Kẻ đui và kẻ què đều sẽ chẳng vào nhà nầy.
(1 Sử ký) 11 6 Đa-vít nói rằng: Hễ ai hãm đánh dân Giê-bu-sít trước hết, ắt sẽ được làm trưởng và làm tướng. Vậy, Giô-áp, con trai Xê-ru-gia, đi lên đánh trước hết, nên được làm quan trưởng. 7 Đa-vít ở trong đồn; vậy nên gọi là thành Đa-vít. 8 Người xây tường-thành bốn phía, từ Mi-lô cho đến khắp chung-quanh; còn phần thành dư lại thì Giô-áp sửa-sang. 9 Đa-vít càng ngày càng cường-thạnh; vì Đức Giê-hô-va vạn-quân ở cùng người.
(2 Sa-mu-ên) 5 11 Hi-ram, vua thành Ty-rơ, sai sứ đến Đa-vít, đem theo gỗ bá-hương, thợ mộc, thợ đá đặng xây cất một cái đền cho Đa-vít. 12 Bấy giờ, Đa-vít nhìn-biết rằng Đức Giê-hô-va đã lập mình làm vua trên Y-sơ-ra-ên, và khiến nước mình được thạnh-vượng vì cớ dân Y-sơ-ra-ên của Ngài.
Đa-vít thỉnh hòm giao-ước từ Ki-ri-át-Giê-a-rim về
(1 Sử ký) 13 1 Đa-vít hội-nghị với quan-tướng ngàn quân, quan-tướng trăm quân, cùng các quan-trưởng của dân. 2 Đa-vít nói với cả hội-chúng Y-sơ-ra-ên rằng:
Nếu các ngươi lấy đều nầy làm tốt-lành, và nếu sự nầy do nơi Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta mà đến, thì ta hãy sai người đi khắp mọi nơi, đến cùng anh em chúng ta còn lại ở khắp xứ Y-sơ-ra-ên, và đến cùng những thầy tế-lễ và người Lê-vi ở trong các thành địa-hạt chúng, để nhóm chúng lại cùng ta; 3 rồi chúng ta phải thỉnh hòm của Đức Chúa Trời về cùng chúng ta; vì trong đời Sau-lơ, chúng ta không có đến trước hòm giao-ước mà cầu-vấn Đức Chúa Trời. 4 Cả hội chúng đều nói rằng nên làm như vậy; vì cả dân-sự lấy lời ấy làm tốt-lành.
5 Ða-vít bèn nhóm cả Y-sơ-ra-ên lại, từ Si-ho, khe Ê-díp-tô, cho đến nơi nào Ha-mát, để rước hòm của Đức Chúa Trời từ Ki-ri-át-Giê-a-rim về.
6 Đa-vít và cả Y-sơ-ra-ên đồng đi lên Ba-a-la, tại Ki-ri-át-Giê-a-rim, thuộc về Giu-đa, đặng rước hòm của Đức Chúa Trời lên, tức là Đức Giê-hô-va ngự giữa Chê-ru-bin, là nơi cầu-khẩn danh của Ngài. 7 Chúng rước hòm giao-ước của Đức Chúa Trời từ nhà A-bi-na-đáp, để lên trên một cái cộ mới; còn U-xa và A-hi-ô thì dắc cộ. 8 Đa-vít và cả Y-sơ-ra-ên đều hết sức vui chơi trước mặt Đức Chúa Trời, xướng ca, dùng đờn-cầm, đờn-sắt, trống nhỏ, chập-chỏa, và kèn mà vui-mừng.
U-xa chết. — Hòm giao-ước rước về nhà Ô-bết-Ê-đôm
9 Khi chúng đến sân đạp lúa của Ki-đôn, U-xa bèn giơ tay ra nắm lấy hòm, bởi vì bò trợt bước. 10 Cơn thạnh-nộ của Đức Giê-hô-va nổi lên cùng U-xa, và Ngài đánh người, bởi vì người có giơ tay ra trên hòm; người bèn chết tại đó trước mặt Đức Chúa Trời. 11 Đa-vít chẳng vừa ý, vì Đức Giê-hô-va đã hành-hại U-xa; người gọi nơi ấy là Bê-rết-U-xa, hãy còn gọi vậy cho đến ngày nay. 12 Trong ngày ấy, Đa-vít lấy làm sợ-hãi Đức Chúa Trời, mà nói rằng: Ta rước hòm của Đức Chúa Trời vào nhà ta sao được? 13 Vậy, Đa-vít không thỉnh hòm về nhà mình tại trong thành Đa-vít, nhưng biểu đem để vào nhà Ô-bết-Ê-đôm, là người Gát. 14 Hòm của Đức Chúa Trời ở ba tháng trong nhà Ô-bết-Ê-đôm; Đức Giê-hô-va ban phước cho nhà Ô-bết-Ê-đôm và mọi vật thuộc về người.
Đa-vít đánh hơn dân Phi-li-tin hai lần
14 8 Khi dân Phi-li-tin hay rằng Đa-vít đã được xức dầu làm vua trên cả Y-sơ-ra-ên, thì hết thảy người Phi-li-tin đều đi lên đặng tìm người; Đa-vít hay đều đó, bèn đi ra đón chúng nó. 9 Vả dân Phi-li-tin đã loán đến, tràn ra trong trũng Rê-pha-im. 10 Đa-vít cầu-vấn Đức Chúa Trời rằng: Tôi phải đi lên đánh dân Phi-li-tin chăng? Chúa sẽ phó chúng nó vào tay tôi chăng? Đức Giê-hô-va đáp lời cùng người rằng: Hãy đi lên; ta sẽ phó chúng nó vào tay ngươi. 11 Người Phi-li-tin kéo lên Ba-anh-Phê-rát-sim, rồi tại đó Đa-vít đánh chúng nó; đoạn, Đa-vít nói rằng: Đức Chúa Trời có dùng tay ta đã đánh phá các thù-nghịch ta, như nước phá vỡ vậy; bởi cớ ấy người ta gọi chỗ đó là Ba-anh-Phê-rát-sim. 12 Người Phi-li-tin bỏ các thần-tượng mình tại đó; Đa-vít truyền thiêu nó trong lửa.
13 Người Phi-li-tin lại bủa-khắp trong trũng. 14 Đa-vít cầu-vấn Đức Chúa Trời nữa; Đức Chúa Trời đáp với người rằng: Ngươi chớ đi lên theo chúng nó; hãy đi vòng chúng nó, rồi đến hãm đánh chúng nó tại nơi đối-ngang cây dâu. 15 Vừa khi ngươi nghe tiếng bước đi trên ngọn cây dâu, bấy giờ ngươi sẽ kéo ra trận; vì Đức Chúa Trời ra trước ngươi đặng hãm đánh đạo-quân Phi-li-tin. 16 Đa-vít làm y như lời Đức Chúa Trời đã phán dặn; họ đánh đuổi đạo-quân Phi-li-tin từ Ga-ba-ôn cho đến Ghê-xe.
17 Danh của Đa-vít đồn ra trong khắp các nước; Đức Giê-hô-va khiến cho các dân-tộc đều kính-sợ Đa-vít.
Tác-giả ngợi-khen Đức Giê-hô-va vì thắng được kẻ thù-nghịch
Cho thầy nhạc-chánh. Thơ Đa-vít, tôi-tớ của Đức Giê-hô-va, làm; người đọc các lời bài nầy cho Đức Giê-hô-va trong ngày Đức Giê-hô-va giải-cứu người khỏi tay mọi kẻ thù-nghịch, và khỏi tay Sau-lơ. Người nói rằng:
(Thi thiên) 18 1 Hỡi Đức Giê-hô-va, Ngài là năng-lực tôi, tôi yêu-mến Ngài.
2 Đức Giê-hô-va là hòn đá tôi, đồn-lũy tôi, Đấng giải-cứu tôi;
Đức Chúa Trời là hòn đá tôi, nơi Ngài tôi sẽ nương-náu mình;
Ngài cũng là cái khiên tôi, sừng cứu-rỗi tôi, và là nơi náu-ẩn cao của tôi.
3 Đức Giê-hô-va đáng được ngợi-khen; tôi sẽ kêu-cầu Ngài,
Ắt sẽ được giải-cứu khỏi các kẻ thù-nghịch tôi.
4 Các dây sự chết đã vương-vấn tôi,
Lụt gian-ác chảy cuộn làm cho tôi sợ-hãi.
5 Những dây Âm-phủ đã vấn lấy tôi,
Lưới sự chết hãm-bắt tôi.
6 Trong cơn gian-truân tôi cầu-khẩn Đức Giê-hô-va,
Tôi kêu-cầu Đức Chúa Trời tôi:
Tại đền Ngài, Ngài nghe tiếng tôi,
Và tiếng kêu-cầu của tôi thấu đến tai Ngài.
7 Bấy giờ đất động và rung,
Nền các núi cũng lay-chuyển
Và rúng-động, vì Ngài nổi giận.
8 Khói bay ra từ lỗ mũi Ngài,
Ngọn lửa hực phát ra từ miệng Ngài,
Làm cho than cháy đỏ.
9 Ngài làm nghiêng-lệch các từng trời, và ngự xuống;
Dưới chơn Ngài có vùng đen-kịt.
10 Ngài cỡi chê-ru-bin và bay,
Ngài liệng trên cánh của gió.
11 Ngài nhờ sự tối-tăm làm nơi ẩn-núp mình,
Dùng các vùng nước tối-đen và mây mịt-mịt của trời,
Mà bủa xung-quanh mình Ngài dường như một cái trại.
12 Từ sự rực-rỡ ở trước mặt Ngài, ngang qua các mây mịt-mịt của Ngài,
Có phát ra mưa đá và than hực lửa.
13 Đức Giê-hô-va sấm-sét trên các từng trời,
Đấng Chí-Cao làm cho vang-rân tiếng của Ngài,
Có mưa đá và than hực lửa.
14 Ngài bắn tên, làm cho tản-lạc quân thù-nghịch tôi,
Phát chớp-nhoáng nhiều, khiến chúng nó lạc đường.
15 Hỡi Đức Giê-hô-va, bởi lời hăm-he của Ngài,
Bởi gió xịt ra khỏi lỗ mũi Ngài,
Đáy biển bèn lộ ra,
Và các nền thế-gian bị bày-tỏ.
16 Từ trên cao Ngài giơ tay ra nắm tôi,
Rút tôi ra khỏi nước sâu.
17 Ngài giải-cứu tôi khỏi kẻ thù-nghịch có sức-lực,
Khỏi kẻ ghét tôi, vì chúng nó mạnh hơn tôi.
18 Trong ngày gian-truân chúng nó xông vào tôi;
Nhưng Đức Giê-hô-va nâng-đỡ tôi.
19 Ngài đem tôi ra nơi rộng-rãi,
Giải-cứu tôi, vì Ngài ưa-thích tôi.
20 Đức Giê-hô-va đã thưởng tôi tùy sự công-bình tôi,
Báo tôi theo sự thanh-sạch của tay tôi.
21 Vì tôi đã giữ theo các đường-lối Đức Giê-hô-va,
Chẳng có làm ác xây-bỏ Đức Chúa Trời tôi.
22 Vì các mạng-lịnh Ngài đều ở trước mặt tôi,
Còn luật-lệ Ngài, tôi nào bỏ đâu.
23 Tôi cũng ở trọn-vẹn với Ngài,
Giữ lấy mình khỏi ác.
24 Vì vậy, Đức Giê-hô-va đã báo tôi tùy sự công-bình tôi,
Thưởng tôi theo sự thanh-sạch của tay tôi trước mặt Ngài.
25 Kẻ hay thương-xót, Chúa sẽ thương-xót lại;
Đối cùng kẻ trọn-vẹn, Chúa sẽ tỏ mình trọn-vẹn lại;
26 Đối cùng kẻ thanh-sạch, Chúa sẽ tỏ mình thanh-sạch lại;
Còn đối cùng kẻ trái-nghịch, Chúa sẽ tỏ mình nhặt-nhiệm lại.
27 Vì Chúa cứu dân bị khốn-khổ;
Nhưng sụp mắt kẻ tự cao xuống.
28 Chúa thắp ngọn đèn tôi:
Giê-hô-va Đức Chúa Trời tôi, soi sáng nơi sự tối-tăm tôi.
29 Nhờ Ngài tôi sẽ xông ngang qua đạo binh,
Cậy Đức Chúa Trời tôi, tôi sẽ vượt khỏi tường-thành.
30 Còn Đức Chúa Trời, các đường-lối Ngài là trọn-vẹn;
Lời của Đức Giê-hô-va đã được luyện cho sạch;
Ngài là cái khiên cho những kẻ nào nương-náu mình nơi Ngài.
31 Trừ ra Đức Giê-ho-va, ai là Đức Chúa Trời?
Ngoại Đức Chúa Trời chúng tôi, ai là hòn đá lớn?
32 Đức Chúa Trời thắt lưng tôi bằng năng-lực,
Và ban bằng đường tôi.
33 Ngài làm cho chơn tôi lẹ như chơn con nai cái,
Và để tôi đứng trên các nơi cao của tôi.
34 Ngài tập tay tôi đánh giặc,
Đến đỗi cánh tay tôi giương nổi cung đồng.
35 Chúa cũng đã ban cho tôi sự cứu-rỗi làm khiên;
Tay hữu Chúa nâng-đỡ tôi,
Và sự hiền-từ Chúa đã làm tôi nên sang-trọng.
36 Chúa mở rộng đường dưới bước tôi,
Chơn tôi không xiêu-tó.
37 Tôi rượt-đuổi kẻ thù-nghịch tôi, và theo kịp;
Chỉ trở về sau khi đã tận diệt chúng nó.
38 Tôi đâm lủng chúng nó, đến nỗi chúng nó không thế dậy lại được;
Chúng nó sa-ngã dưới chơn tôi.
39 Vì Chúa đã thắt lưng tôi bằng sức-lực để chiến,
Khiến kẻ dấy nghịch cùng tôi xếp-rệp dưới tôi.
40 Chúa cũng khiến kẻ thù-nghịch xây lưng cùng tôi;
Còn những kẻ ghét tôi, tôi đã diệt chúng nó rồi.
41 Chúng nó kêu, nhưng chẳng có ai cứu cho;
Chúng nó kêu-cầu Đức Giê-hô-va, song Ngài không đáp lại.
42 Bấy giờ tôi đánh nát chúng nó ra nhỏ như bụi bị gió thổi đi;
Tôi ném chúng nó ra như bùn ngoài đường.
43 Chúa đã cứu tôi khỏi sự tranh-giành của dân-sự;
Lập tôi làm đầu các nước;
Một dân-tộc tôi không quen-biết sẽ hầu-việc tôi.
44 Vừa khi nghe nói về tôi, chúng nó sẽ phục tôi;
Các người ngoại-bang sẽ giả-bộ vâng-theo tôi.
45 Các người ngoại-bang sẽ tàn-mạt,
Đi ra khỏi chỗ ẩn mình cách run-sợ.
46 Đức Giê-hô-va hằng sống; đáng ngợi-khen hòn đá tôi!
Nguyện Đức Chúa Trời về sự cứu-rỗi tôi được tôn-cao!
47 Tức là Đức Chúa Trời báo oán cho tôi,
Khiến các dân suy-phục tôi.
48 Ngài giải-cứu tôi khỏi kẻ thù-nghịch tôi;
Thật Chúa nâng tôi lên cao hơn kẻ dấy nghịch cùng tôi,
Và cứu tôi khỏi người hung-bạo.
49 Vì vậy, hỡi Đức Giê-hô-va, tôi sẽ ngợi-khen Ngài giữa các dân,
Và ca-tụng danh của Ngài.
50 Đức Giê-hô-va ban cho vua Ngài sự giải-cứu lớn-lao,
Và làm ơn cho đấng chịu xức dầu của Ngài,
Tức là cho Đa-vít, và cho dòng-dõi người, đến đời đời.