Từ năm 536 tr.CN. cho đến năm 522 tr.CN., công việc xây dựng đền thờ bị đình trệ. Sự chống đối từ các kẻ thù của Y-sơ-ra-ên chỉ là một phần của vấn đề, phần khác là do những người định cư ưu tiên xây dựng nhà cửa riêng và chuẩn bị đất đai để trồng trọt. Hồ sơ về sự chống đối bao gồm nhiều thư từ trao đổi giữa các kẻ thù của Y-sơ-ra-ên và các nhà lãnh đạo Ba-tư, những người đã cho phép việc tái định cư. Lời buộc tội chính thức đầu tiên chống lại Y-sơ-ra-ên dường như được đưa ra trong triều đại của Cam-by-sê, người đã nắm quyền kiểm soát Đế quốc Ba-tư khi cha ông, Si-ru, qua đời năm 530 tr.CN. Giống như cha mình, Cam-by-sê về cơ bản là một người tốt. Ông là một nhà cai trị có năng lực trong suốt bảy năm trị vì. Trong bản tường thuật ngắn gọn này, ông được gọi là Xéc-xe, một tên gọi thể hiện địa vị của ông và không nên nhầm lẫn với một nhà cai trị Ba-tư sau này nổi tiếng hơn với tên đó.
4 6 Nhằm đời A-suê-ru, vừa bắt đầu lên ngôi, thì chúng làm một cái trạng cáo dân Giu-đa và dân-cư Giê-ru-sa-lem.
Không có dấu hiệu nào cho thấy Cam-by-sê có hành động chính thức nào để ngăn chặn chương trình tái thiết. Năm 525 tr.CN., ông dẫn quân đội tiến vào Ai Cập và chiếm được Mem-phi từ Pha-ra-ôn A-ma-sic và con trai ông là Sam-tic II. Sự thống trị của Ba-tư này chắc chắn phải là khởi đầu của việc ứng nghiệm nhiều lời tiên tri liên quan đến sự sụp đổ của Ai Cập. Ai Cập sẽ bị thống trị hoàn toàn trong sáu năm tiếp theo. Trong khi Cam-by-sê tham gia chiến dịch Ai Cập, tại quê nhà, người anh trai cùng cha khác mẹ của ông, Me-dic, đã bị giết bởi những người tùy tùng của Cam-by-sê để ngăn chặn bất kỳ khả năng đảo chính nào. Tuy nhiên, một người Mê-đi tên là Gau-ma-ta, tự xưng là Me-dic, thực sự đã lãnh đạo một cuộc nổi loạn và cai trị khoảng mười tháng năm 522 tr.CN. Chính người giả mạo Me-dic này mà các tài liệu lịch sử rõ ràng gọi là Ạt-ta-xét-xe trong bản tường thuật sau đây về các lá thư giữa viên chỉ huy địa phương và kẻ chiếm quyền này. Một lần nữa, không nên nhầm lẫn tên hiệu này với Ạt-ta-xét-xe nổi tiếng hơn sẽ xuất hiện 60 năm sau.
7 Qua đời Ạt-ta-xét-xe, thì Bít-lam, Mít-rê-đát, Ta-bê-ên và đồng-liêu của chúng, viết biển tấu lên Ạt-ta-xét-xe, vua Phe-rơ-sơ. Cái biểu ấy viết bằng chữ A-ram và dịch ra tiếng A-ram.
8 Lại Rê-hum, tể-tướng, và Sim-sai, thơ-ký, đồng viết biểu nghịch cùng Giê-ru-sa-lem, tấu lên vua Ạt-ta-xét-xe như vầy:
9 Rê-hum, tể-tướng, Sim-sai, thơ-ký, và các đồng-liêu của họ, tức là người Đi-nít, người A-phạt-sa-thít, người Tạt-bê-lít, người A-phạt-sít, người Ạt-kê-vít, người Ba-by-lôn, người Su-san, người Đê-ha-vít, người Ê-lam, 10 và dân-sự khác mà Ô-náp-ba cao-trọng và vang-hiển đã đem qua, khiến ở trong thành Sa-ma-ri và trong các miền khác bên phía nầy sông (Nghĩa là sông Ơ-phơ-rát).
11 « Nầy là bổn sao lại của bức biểu chúng gởi tấu vua Ạt-ta-xét-xe.
Các tôi-tớ vua ở bên phía nầy sông, kính-tấu vua Ạt-ta-xét-xe.
12 Tâu vua hay rõ-ràng những người Giu-đa đã từ nơi vua lên đến chúng tôi tại Giê-ru-sa-lem, đương lập lại thành phản-nghịch hung-ác ấy; chúng nó đã xây lại vách-thành và tu-bổ các nền cho xong rồi. 13 Vậy, nguyện vua biết rõ-ràng ví bằng thành nầy được cất lại, và vách-tường nó được xây lên, tất dân nó sẽ chẳng tiến-cống, nộp-thuế, hoặc đóng tiền mãi-lộ, rồi sau chắc sẽ gây họa cho vua. 14 Vả, vì chúng tôi ăn muối của đền vua, và chẳng nỡ chứng-kiến việc gây thiệt-hại cho vua như vậy, nên chúng tôi sai sứ-giả đến tâu rõ cùng vua, 15 đặng người ta tra-khảo trong sử-ký các tổ-phụ vua: tất sẽ tìm thấy trong sách sử-ký đó và biết rằng cái thành nầy vốn một cái thành phản-nghịch, gây thiệt-hại cho các vua và nước; từ thuở-xưa, người ta hay làm loạn ở đó; bởi cớ ấy thành nầy đã bị phá-hoang. 16 Chúng tôi tâu cáo vua hay rằng nếu thành nầy được cất lại, và vách-tường nó được xây lên, tất tại cớ ấy, đất ở phía bên nây sông sẽ chẳng còn phục vua nữa.
17 Vua bèn giáng chiếu cho tể-tướng Rê-hum, cho thơ-ký Sim-sai, và cho các đồng-liêu của họ ở tại Sa-ma-ri và ở trong các miền khác phía bên nây sông, mà rằng:
Nguyện các ngươi bình-yên.
18 Bức biểu các ngươi dâng tấu lên ta đã đọc ra tỏ-tường trước mặt ta. 19 Cứ theo mạng-lịnh, ta người ta đã tra-khảo, thấy rằng từ đời xưa cái thành nầy có dấy-loạn với các vua, và trong nó hằng có sự phản-nghịch và việc nguỵ-đảng. 20 Lại tại Giê-ru-sa-lem đã có những vua rất quyền-thế, quản-hạt cả xứ ở bên kia sông, và người ta tiến-cống, nộp thuế, và đóng tiền mãi-lộ cho các vua đó. 21 Vì vậy, các ngươi hãy truyền lịnh ngăn-cản những người đó cất lại cái thành nầy, cho đến chừng ta ban chiếu-chỉ về việc đó. 22 Khá cẩn-thận về sự nầy, e các vua bị thiệt-hại thêm chăng.
23 Vừa khi đã đọc chiếu của vua Ạt-ta-xét-xe trước mặt Rê-hum, thơ-ký, Sim-sai và các đồng-liêu họ, thì chúng đồng lật-đật đi đến dân Giu-đa tại Giê-ru-sa-lem, lấy năng-lực và cường-quyền khiến họ ngưng công-việc. 24 Vậy, công-việc xây-cất nhà của Đức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem đình cho đến năm thứ hai đời Đa-ri-út, vua Phe-rơ-sơ, trị-vì.
Ngay khi lệnh ngừng xây dựng được ban hành, liền có sự xáo trộn trong cơ cấu quyền lực Ba-tư. Khi Cam-by-sê chết gần núi Cạt-mên (có thể là tự sát), một người họ hàng xa tên là Đa-ri-út đã hành động chống lại Gau-ma-ta và nắm quyền kiểm soát đế quốc vào năm 522 tr.CN. Đa-ri-út hành động nhanh chóng để tập hợp vương quốc đang lung lay của mình và ban hành bộ luật pháp để thi hành trên khắp đế quốc. Do đó, không có gì đáng ngạc nhiên khi trong hoàn cảnh sắp xuất hiện, Đa-ri-út sẵn sàng tiếp nhận lời thỉnh cầu của dân Y-sơ-ra-ên được phép tiếp tục công việc xây dựng đền thờ. Vấn đề được đưa ra khi các tiên tri Ha-gai và Xa-cha-ri bác bỏ lệnh trước đó của Gau-ma-ta.
Khởi lại công-việc xây-cất đền-thờ
5 1 Vả, tiên-tri A-ghê và tiên-tri Xa-cha-ri, con của Y-đô, nhơn danh Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên nói tiên-tri cho các người Giu-đa tại xứ Giu-đa và ở tại Giê-ru-sa-lem. 2 Xô-rô-ba-bên, con trai của Sa-anh-thi-ên, và Giê-sua, con trai của Giô-xa-đác, bèn chổi dậy, khởi cất đền Đức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem, có các tiên-tri của Đức Chúa Trời giúp-đỡ.
3 Trong lúc đó, Tát-tê-nai, quan tổng-đốc của xứ phía bên nầy sông, Sê-ta-Bô-xê-nai, và các đồng-liêu họ, đến tìm dân Giu-đa, mà nói cùng chúng như vầy: Ai ban lịnh cho các ngươi cất cái đền nầy và xây vách-thành nầy lên? 4 Chúng ta bèn nói cùng họ tên những người xây-cất cái đền nầy. 5 Con mắt Đức Chúa Trời của chúng đoái-xem các trưởng-lão dân Giu-đa, nên họ không ngăn-cấm chúng làm công-việc, đành lòng đem việc ấy tâu lại Đa-ri-út, đợi đến khi vua giáng chiếu về sự ấy.
6 Nầy bổn sao-lục tờ biểu mà Tát-tê-nai, quan tổng-đốc của xứ phía bên nầy sông, Sê-ta-Bô-xê-nai, và các đồng-liêu người, tức người A-phạt-sác ở bên nầy sông, tấu lên vua Đa-ri-út, 7 như lời sau nầy:
Chúc vua Đa-ri-út thái-bình mọi vẻ! 8 Chúng tôi muốn vua hay rằng chúng tôi có đi trong tỉnh Giu-đa, đến đền-thờ của Đức Chúa Trời rất lớn, thấy người Giu-đa xây-cất cái đền-thờ ấy bằng đá nguyên-khối; sườn nhà đã gác ngang qua vách rồi, và công-việc làm cách kỹ-lưỡng và tấn-tới trong tay họ. 9 Chúng tôi có hỏi các trưởng-lão ấy rằng: Ai ban lịnh cho các ngươi cất cái đền nầy và xây vách-thành nầy lên? 10 Chúng tôi cũng hỏi danh-tánh họ, đặng tâu cho vua biết các tên của những người quản-suất chúng. 11 Chúng đáp lời như vầy: Chúng tôi vốn là kẻ tôi-tớ của Đức Chúa Trời, Chúa-tể của trời và đất; chúng tôi đang xây-cất lại cái đền-thờ, đã lâu năm trước đây có một vua sang-trọng của Y-sơ-ra-ên lập lên và làm cho hoàn-thành. 12 Song các tổ-phụ chúng tôi chọc giận Đức Chúa Trời, nên Ngài phó chúng vào tay Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, là người Canh-đê; vua ấy phá-hủy đền nầy và bắt dân-sự đem qua Ba-by-lôn. 13 Nhưng năm đầu đời Si-ru, vua Ba-by-lôn, trị-vì, vua Si-ru truyền lịnh cất lại cái đền của Đức Chúa Trời. 14 Vua Si-ru cũng rút ra khỏi đền-thờ Ba-by-lôn những chậu vàng và bạc của đền Đức Chúa Trời, mà Nê-bu-cát-nết-sa đã đoạt lấy khỏi đền-thờ tại Giê-ru-sa-lem, đem về trong đền-thờ Ba-by-lôn; Si-ru giao các vật ấy cho danh Sết-ba-xa, mà người lập làm quan tổng-đốc, 15 và nói với người rằng: Hãy lấy các khí-dụng nầy, đi để trong đền-thờ tại Giê-ru-sa-lem, và xây-cất lại nhà của Đức Chúa Trời trên chỗ cũ nó. 16 Bấy giờ, Sết-ba-xa nầy đến, lập nền đền-thờ của Đức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem; và từ lúc đó đến rày, người ta đương xây-cất nó, song chưa hoàn-thành.
17 Vậy bây giờ, nếu đẹp ý vua, xin hãy tra-khảo trong kho vua tại Ba-by-lôn, xem thử thật Si-ru có ra chiếu-chỉ xây-cất lại cái đền của Đức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem chăng. Đoạn, cầu vua giáng chiếu dạy chúng tôi ý vua về việc ấy.
Vua Đa-ri-út ra chỉ-dụ cho phép cất. — Khánh-thành đền-thờ và giữ lễ Vượt-qua
6 1 Vua Đa-ri-út bèn truyền tra-khảo trong tàng thơ-viện là nơi chứa các bửu-vật tại Ba-by-lôn. 2 Người ta tìm được trong đồn ở Éc-ba-tan tại tỉnh Mê-đi, một cuốn giấy trên đó có di-tích như vầy:
3 Năm thứ nhứt đời Si-ru, vua Si-ru ra chiếu-chỉ về đền của Đức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem rằng: Khá xây-cất lại đền của Đức Chúa Trời, đặng làm nơi dâng những của-lễ; các nền nó phải lập cho vững-bền. Đền-thờ sẽ sáu mươi thước bề cao, và sáu mươi thước bề dài; 4 nó sẽ có ba hàng đá nguyên-khối và một hàng đòn tay gỗ mới; còn tiền sở-phí thì phải cấp-phát từ trong nhà vua. 5 Lại, các khí-dụng bằng vàng và bạc của nhà Đức Chúa Trời, mà Nê-bu-cát-nết-sa đã lấy trong đền-thờ tại của Giê-ru-sa-lem và đem qua Ba-by-lôn, thì phải trả lại, và đem về trong đền-thờ tại Giê-ru-sa-lem, khí-dụng nầy trong chỗ nấy; ngươi phải để nó tại chỗ cũ trong nhà của Đức Chúa Trời.
6 Vậy bây giờ, hỡi Tát-tê-nai, tổng-đốc của xứ phía bên kia sông, Sê-ta-Bô-xê-nai, và các đồng-liêu người ở A-phạt-sác bên kia sông, hãy dan ra; 7 khá để cho quan-cai của người Giu-đa và những người trưởng-lão của chúng xây-cất lại đền-thờ của Đức Chúa Trời tại nơi cũ nó.
8 Nầy ta ra lịnh, truyền các ngươi phải làm gì đối với các trưởng-lão dân Giu-đa, đặng giúp việc cất lại cái đền của Đức Chúa Trời: Hãy lấy thuế-khóa thâu ở bên kia sông, vội cấp-phát các tiền chi-phí cho những người đó, để công-việc chẳng bị dứt chừng. 9 Phàm vật chi cần-kíp, hoặc bò tơ đực, chiên đực hay là chiên con, để dùng làm của-lễ thiêu dâng cho Đức Chúa trên trời; hoặc lúa mì, muối, rượu, hay là dầu, theo lời những thầy tế-lễ ở tại Giê-ru-sa-lem, khá giao cho họ mỗi ngày, chớ thiếu, 10 hầu cho họ dâng những của-lễ có mùi thơm cho Đức Chúa trên trời, và cầu-nguyện cho sanh-mạng của vua và của các vương-tử. 11 Ta cũng truyền lịnh rằng: Nếu ai cải chiếu-chỉ nầy, thì khá rút một cây đòn tay trong nhà kẻ ấy, rồi treo nó tại đó; và vì cớ tội ấy, làm cho nhà nó thành ra một chỗ đổ rác. 12 Nguyện Đức Chúa Trời, là Đấng đã khiến danh Ngài ngự trong đền-thờ ấy, hủy-diệt vua nào, dân-tộc nào dám giơ tay ra cải chiếu nầy đặng phá-hủy đền-thờ của Đức Chúa Trời ở tại Giê-ru-sa-lem. Ta là Đa-ri-út ban chiếu-chỉ nầy; khá làm theo nó cách cần-mẫn!
13 Tát-tê-nai, quan tổng-đốc của xứ phía bên nầy sông, Sê-ta-Bô-xê-nai và các đồng-liêu họ, bèn cần-mẫn tuân theo chiếu-chỉ mà vua Đa-ri-út đã sai đến.
Một lần nữa, Đức Chúa Trời hành động thông qua một nhà cai trị Ba-tư để thực hiện việc phục hồi đã hứa. Chính phủ Ba-tư thậm chí còn cung cấp kinh phí cho việc xây dựng đền thờ và các của lễ thiêu sẽ dâng trong đó! Điều này nghe có vẻ rất bất thường, nhưng nó phù hợp với chính sách Ba-tư về việc thúc đẩy đa thần trong toàn đế quốc. Sắc lệnh của Đa-ri-út cho thấy ông hoan nghênh thiện chí của bất kỳ thần nào, kể cả “Đức Chúa Trời của trời này.