Ngày 23 tháng Chín

< Lui     Trang Lịch     Tới >

Đọc E-xơ-ra 1:1-4:5

THỜI KỲ PHỤC HỒI (Khoảng 535-425 TCN)

Lần Trở Về Đầu Tiên Giê-ru-sa-lem

Sự trỗi dậy của Đế chế Ba Tư sẽ chứng tỏ là một phước lành thực sự cho dân tộc Y-sơ-ra-ên bị lưu đày. Không giống như người A-sy-ri và Ba-by-lôn, những người tin vào việc bứng rễ các tù nhân của họ, chính sách của Ba Tư là hồi hương và duy trì hiện trạng của tình hình chính trị, xã hội và tôn giáo trong chừng mực có thể. Ý tưởng, rõ ràng, là một dân tộc hạnh phúc sẽ ít có khả năng nổi loạn. Vì lý do đó, cũng như để hoàn thành lời hứa phục hồi của Đức Chúa Trời, một bước quan trọng được Si-ru Đại đế thực hiện vào năm 538 TCN. Ông ban hành sắc lệnh sau đây khuyến khích các tình nguyện viên trong số người Hê-bơ-rơ trở về Giê-ru-sa-lem và xây dựng lại đền thờ.

Vua Si-ru ra sắc-chỉ cho phép cất đền lại, và cho dân Giu-đa trở về Giê-ru-sa-lem

1 1 Năm thứ nhứt đời Si-ru, vua nước Phe-rơ-sơ trị-vì, Đức Giê-hô-va muốn làm cho ứng-nghiệm lời Ngài đã cậy miệng Giê-rê-mi mà phán ra, nên Ngài cảm-động lòng Si-ru, vua Phe-rơ-sơ tuyên-truyền trong khắp nước mình, và cũng ra sắc-chỉ rằng: 2 Si-ru, vua Phe-rơ-sơ, nói như vầy: Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã ban các nước thế-gian cho ta, và chánh Ngài có biểu ta xây-cất cho Ngài một đền-thờ tại Giê-ru-sa-lem, trong xứ Giu-đa. 3 Trong các ngươi, phàm ai thuộc về dân-sự Ngài, khá trở lên Giê-ru-sa-lem trong xứ Giu-đa, đặng cất lại đền-thờ Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, vẫn ngự tại Giê-ru-sa-lem. Nguyện Đức Chúa Trời người ấy ở cùng người! 4 Hễ dân Giu-đa còn sót lại, mặc dầu ở đâu, thì bổn-dân của nơi họ ở, phải tiếp-trợ họ bằng bạc, vàng, của-cải, súc-vật, không kể những của-lễ lạc-hiến về đền của Đức Chúa Trời ở tại Giê-ru-sa-lem.

Hãy tưởng tượng sự phấn khích và lễ kỷ niệm phải đến khi tin tức về sắc lệnh này lan đến tất cả các tù nhân trong cuộc lưu đày! Và dù sao vẫn có một tình huống khó xử ngay lập tức. Sau hơn sáu thập kỷ xa cách quê hương, dân Y-sơ-ra-ên đã khá ổn định trong xã hội Ba-by-lôn-nay-trở-thành-Ba Tư. Những người nghe theo lời khuyên của Giê-rê-mi đã mua nhà hoặc xây nhà, bắt đầu kinh doanh và học được ngôn ngữ và lối sống mới. Cũng có cả một thế hệ mới của người Do Thái, như họ hiện được gọi, những người chưa bao giờ đặt chân đến Pa-lét-tin. Do đó, cần có một tinh thần tiên phong thực sự để rời bỏ một tình huống thịnh vượng vì sự hoang tàn của vùng đất Pa-lét-tin.

Bất chấp quyết định khó khăn, hơn 42.000 người quyết định trở về dưới sự lãnh đạo của Sết-ba-xa, người được chỉ định làm thống đốc. Họ thân và hàng xóm làm gì có thể để hỗ trợ các chương trình tái định cư và tái thiết. Thậm chí Si-ru còn hỗ trợ bằng cách trả lại các đồ dùng đền thờ mà Na-bu-cát-nết-sa đã cướp đoạt. Tất cả đã sẵn sàng, và cuộc di cư vĩ đại diễn ra vào năm 538 TCN. Trong vòng hai năm, vào năm 536 TCN, việc tái định cư ban đầu đã hoàn thành và việc đặt nền móng đền thờ được thực hiện – 70 năm sau lần đầu tiên bị đày đi vào năm 605 TCN! Và dù vậy, ngay khi họ bắt đầu, dân chúng gặp phải sự chống đối. Việc phục hồi sẽ không dễ dàng.

5 Bấy giờ, những trưởng-tộc của Giu-đa và Bên-gia-min, những thầy tế-lễ, và người Lê-vi, cả thảy những người nào Đức Chúa Trời cảm-động lòng có ý đi lên xây-cất đền-thờ của Đức Giê-hô-va tại Giê-ru-sa-lem, bèn chổi-dậy. 6 Các người lân-cận chúng đều tiếp-trợ chúng, cho những vật bằng bạc, bằng vàng, của-cải, súc-vật, và những vật quí-báu, bất kể các của lạc-hiến khác.

7 Vua Si-ru cũng trả lại những khí-dụng của đền-thờ Đức Giê-hô-va, mà Nê-bu-cát-nết-sa đã đem đi khỏi Giê-ru-sa-lem và để trong đền-thờ của thần người. 8 Si-ru, vua Phe-rơ-sơ, truyền Mít-rê-đát, người thủ-quỹ, lấy các khí-dụng ấy ra, đếm và giao cho Sết-ba-xa (Sết-ba-xa ấy là tên của Xô-rô-ba-bên, theo tiếng Canh-đê), quan-trưởng của Giu-đa. 9 Nầy là số của các khí-dụng ấy: ba mươi cái chậu vàng, ngàn cái chậu bạc, hai mươi chín con dao, 10 ba mươi cái chén vàng, bốn trăm mười cái chén bạc thứ hạng nhì, một ngàn cái khí-dụng khác. 11 Hết thảy những khí-dụng bằng vàng và bạc số là năm ngàn bốn trăm cái. Khi những người bị bắt làm phu-tù ở Ba-by-lôn được dẫn về Giê-ru-sa-lem, thì Sết-ba-xa đem lên luôn hết thảy vật ấy.

Dựng sổ dân Giu-đa trở về Giu-đê với Xô-rô-ba-bên

2 1 Trong con-cháu các dân tỉnh Giu-đa bị Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, bắt dẫn qua Ba-by-lôn, nầy những người bị đày đó trở lên Giê-ru-sa-lem và xứ Giu-đa, mỗi người về trong thành mình, 2 có Xô-rô-ba-bên, Giê-sua, Nê-hê-mi, Sê-ra-gia, Rê-ê-la-gia, Mạc-đô-chê, Binh-san, Mít-bạt, Biết-vai, Rê-hum và Ba-a-na dẫn-dắt. Vậy, nầy là sổ dựng những người nam của dân Y-sơ-ra-ên.

3 Họ Pha-rốt, hai ngàn một trăm bảy mươi hai; 4 họ Sê-pha-ti-a, ba trăm bảy mươi hai; 5 họ A-rách, bảy trăm bảy mươi lăm; 6 họ Pha-hát-Mô-áp, con-cháu của Giê-sua và Giô-áp, hai ngàn tám trăm mười hai; 7 họ Ê-lam, một ngàn hai trăm năm mươi bốn; 8 họ Xát-tu, chín trăm bốn mươi lăm; 9 họ Xác-cai, bảy trăm sáu mươi; 10 họ Ba-ni, sáu trăm bốn mươi hai; 11 họ Bê-bai, sáu trăm hai mươi ba; 12 họ A-gát, một ngàn hai trăm hai mươi hai; 13 họ A-đô-ni-cam, sáu trăm sáu mươi sáu; 14 họ Biết-vai, hai ngàn năm mươi sáu; 15 họ A-đin, bốn trăm năm mươi bốn; 16 họ A-te, về gia-quyến Ê-xê-chia, chín mươi tám; 17 họ Bết-sai, ba trăm hai mươi ba; 18 họ Giô-ra, một trăm mười hai; 19 họ Ha-sum, hai trăm hai mươi ba; 20 họ Ghi-ba, chín mươi lăm; 21 họ Bết-lê-hem, một trăm hai mươi ba; 22 người Nê-tô-pha, năm mươi sáu; 23 người A-na-tốt, một trăm hai mươi tám; 24 người Ách-ma-vết, bốn mươi hai; 25 người Ki-ri-át-A-rim, Kê-phi-ra, và Bê-ê-rốt, bảy trăm bốn mươi ba; 26 người Ra-ma và Ghê-ba, sáu trăm hai mươi mốt; 27 người Mích-ma, một trăm hai mươi hai; 28 người Bê-tên và A-hi, hai trăm hai mươi ba; 29 họ Nê-bô, năm mươi hai; 30 họ Mác-bi một trăm năm mươi sáu; 31 họ Ê-lam khác, một ngàn hai trăm năm mươi bốn; 32 họ Ha-rim, ba trăm hai mươi; 33 họ Lô-đơ, họ Ha-đít, và họ Ô-nô, bảy trăm hai mươi lăm; 34 người Giê-ri-cô, ba trăm bốn mươi lăm; 35 họ Sê-na, ba ngàn sáu trăm ba mươi.

36 Những thầy tế-lễ: họ Giê-đa-gia, thuộc về nhà Giê-sua, chín trăm bảy mươi ba; 37 họ Y-mê, một ngàn năm mươi hai; 38 họ Pha-su-rơ, một ngàn hai trăm bốn mươi bảy; 39 họ Ha-rim, một ngàn mười bảy.

40 Các người Lê-vi: họ Giê-sua và Cát-mi-ên, con-cháu của Hô-đa-via, bảy mươi bốn.

41 Những người ca-hát: họ A-sáp, một trăm hai mươi tám.

42 Các con-cháu kẻ giữ cửa: con-cháu Sa-lum, con-cháu A-te, con-cháu Tanh-môn, con-cháu A-cúp, con-cháu Ha-ti-ta, con-cháu Sô-bai, cọng hết thảy là một trăm ba mươi chín người.

43 Kẻ phục-dịch trong đền-thờ (Nguyên bổn rằng: Nê-thi-nim: Nghĩa là kẻ phục-dịch trong đền-thờ): Con-cháu Xi-ha, con-cháu Ha-su-pha, con-cháu Ta-ba-ốt, 44 con-cháu Kê-rốt, con-cháu Sia-ha, con-cháu Ba-đôn, 45 con-cháu Lê-ba-na, con-cháu Ha-ga-ba, con-cháu A-cúp, 46 con-cháu Ha-gáp, con-cháu Sam-lai, con-cháu Ha-nan, 47 con-cháu Ghi-đên, con-cháu Ga-cha, con-cháu Rê-a-gia, 48 con-cháu Rê-xin, con-cháu Nê-cô-đa, con-cháu Ga-xam, 49 con-cháu U-xa, con-cháu Pha-sê-a, con-cháu Bê-sai, 50 con-cháu A-sê-na, con-cháu Mê-u-nim, con-cháu Nê-phu-sim, 51 con-cháu Bác-búc, con-cháu Ha-cu-pha, con-cháu Ha-rua, 52 con-cháu Ba-lút, con-cháu Mê-hi-đa, con-cháu Hạt-sa, 53 con-cháu Bạt-cô, con-cháu Si-sê-ra, con-cháu Tha-mác, 54 con-cháu Nê-xia, con-cháu Ha-ti-pha.

55 Con-cháu của các tôi-tớ Sa-lô-môn: con-cháu Sô-tai, con-cháu Sô-phê-rết, con-cháu Phê-ru-đa, 56 con-cháu Gia-a-la, con-cháu Đạt-côn, con-cháu Ghi-đên, 57 con-cháu Sê-pha-ti-a, con-cháu Hát-tinh, con-cháu Bô-kê-rết-Ha-xê-ba-im, con-cháu A-mi.

58 Tổng cọng những người phục-dịch trong đền-thờ và các con-cháu của những tôi-tớ Sa-lô-môn, đều là ba trăm chín mươi hai người.

59 Nầy là những người ở Tên-Mê-la. Tên-Hạt-sa, Kê-rúp-A-đan, và Y-mê trở lên, không thế nói rõ gia-tộc và phổ-hệ mình, đặng chỉ rằng mình thuộc về dòng-dõi Y-sơ-ra-ên hay chăng: 60 con-cháu Đê-la-gia, con-cháu Tô-bi-gia, con-cháu Nê-cô-đa, đều sáu trăm năm mươi hai người. 61 Trong dòng-dõi thầy tế-lễ: con-cháu Ha-ba-gia, con-cháu Ha-cốt, con-cháu Bạt-xi-lai. Người ấy có cưới một con gái của Bạt-xi-lai ở Ga-la-át, nên được gọi bằng tên ấy. 62 Các người ấy tìm gia-phổ mình, nhưng chẳng tìm đặng; nên người ta kể họ là ô-uế, và họ bị truất khỏi chức tế-lễ. 63 Quan tổng-đốc cấm chúng ăn những vật chí-thánh cho đến chừng nào có thầy tế-lễ cậy U-rim và Thu-mim (không thấy trong nguyên-bổn, chỉ thêm đây đặng làm rõ nghĩa.) mà cầu-hỏi Đức Chúa Trời.

64 Cả hội-chúng đếm được bốn vạn hai ngàn ba trăm sáu mươi người, 65 chẳng kể những tôi trai tớ gái; số chúng nó là bảy ngàn ba trăm ba mươi bảy. Cũng có hai trăm người nam nữ ca-hát theo cùng họ nữa. 66 Chúng có bảy trăm ba mươi sáu con ngựa, hai trăm bốn mươi lăm con la, 67 bốn trăm ba mươi lăm con lạc-đà, và sáu ngàn bảy trăm hai mươi con lừa.

68 Có nhiều trưởng-tộc, khi đã đến đền-thờ của Đức Giê-hô-va tại Giê-ru-sa-lem, thì dâng những của-lễ lạc-ý cho nhà Đức Chúa Trời, để xây-cất nó lại chỗ cũ. 69 Tùy theo sức mình, chúng dâng vào kho của cuộc xây-cất đền sáu mươi mốt ngàn đa-riếc vàng, năm ngàn min bạc, và một trăm bộ áo thầy tế-lễ.

70 Vậy, những thầy tế-lễ, người Lê-vi, mấy người dân, người ca-hát, kẻ giữ cửa, những người phục-dịch trong đền-thờ, và cả dân Y-sơ-ra-ên, thảy đều ở trong bổn-thành mình.

Lập lại bàn-thờ và sự dâng của-lễ. — Xây-cất nền của đền-thờ

3 1 Đến tháng bảy, khi dân Y-sơ-ra-ên đã ở trong bổn-thành mình rồi, thì dân-sự hiệp lại như một người ở tại Giê-ru-sa-lem. 2 Bấy giờ, Giê-sua, con trai của Giô-sa-đác, và các anh em người, là thầy tế-lễ, luôn với Xô-rô-ba-bên, con trai Sa-anh-thi-ên, và các anh em người, đều chổi dậy xây-cất bàn-thờ Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, đặng dâng của-lễ thiêu tại đó, theo như đã chép trong luật-pháp Môi-se, người của Đức Chúa Trời. 3 Chúng sợ-hãi dân của xứ, nên lập lại bàn-thờ trên nền cũ nó, và dâng tại đó của-lễ thiêu cho Đức Giê-hô-va, tức là của-lễ thiêu buổi sớm và buổi chiều. 4 Chúng cũng giữ lễ lều-tạm, y như đã chép, và dâng những của-lễ thiêu ngày nầy kế ngày kia, theo số đã định cho mỗi ngày. 5 Sau ấy, chúng dâng những của-lễ thiêu hằng-hiến, luôn những của-lễ về lễ trăng non và về các ngày lễ trọng-thể biệt ra thánh cho Đức Giê-hô-va; lại dâng các của-lễ của mỗi người lạc-ý dâng cho Đức Giê-hô-va. 6 Từ ngày mồng một tháng bảy, chúng khởi dâng những của-lễ thiêu cho Đức Giê-hô-va; nhưng chưa có xây nền đền-thờ của Đức Giê-hô-va. 7 Chúng phân-cấp tiền-bạc cho thợ đẽo đá và cho thợ mộc, luôn những lương-thực, rượu, và dầu cho dân Si-đôn và dân Ty-rơ, đặng sai họ đem gỗ bá-hương từ Li-ban đến biển Gia-phô, tùy theo chiếu của Si-ru, vua Phe-rơ-sơ.

8 Năm thứ hai tháng hai, sau khi chúng đến đền của Đức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem, Xô-rô-ba-bên, con trai của Sa-anh-thi-ên, và Giê-sua, con của Giô-xa-đác, với các anh em khác của họ, là những thầy tế-lễ, người Lê-vi, cùng hết thảy những người bị bắt làm phu-tù được trở về Giê-ru-sa-lem, đều khởi làm công-việc xây-cất đền-thờ; chúng đặt người Lê-vi, từ hai mươi tuổi sắp lên, đặng cai-quản công-việc xây-cất đền-thờ của Đức Giê-hô-va.

9 Bấy giờ, Giê-sua, các con trai người và anh em người, Cát-mi-ên và các con trai người, con-cháu Hô-đa-via và con-cháu Hê-na-đát, là người Lê-vi, với con trai và anh em của họ, đều chổi dậy đồng hiệp nhau như một, mà quản-đốc những người làm việc trong nhà của Đức Chúa Trời.

10 Khi các thợ xây nền đền của Đức Giê-hô-va, thì có những thầy tế-lễ đứng đó mặc áo lễ và cầm kèn, còn những người Lê-vi, con-cháu A-sáp, đều cầm chập-chỏa, đặng ngợi-khen Đức Giê-hô-va y như các lễ-phép của Đa-vít, vua Y-sơ-ra-ên, đã lập ra. 11 Chúng ca-hát đối-đáp mà ngợi-khen cảm-tạ Đức Giê-hô-va rằng: Đáng ngợi-khen Đức Giê-hô-va, vì Ngài là tốt-lành, lòng thương-xót của Ngài đối với Y-sơ-ra-ên còn đến đời đời! Cả dân-sự đều kêu reo tiếng lớn, ngợi-khen Đức Giê-hô-va, bởi vì người ta xây nền đền-thờ của Đức Giê-hô-va.

12 Nhiều thầy tế-lễ, người Lê-vi, trưởng-tộc, tức là những người già-cả đã thấy đền-thờ trước, bèn khóc tiếng lớn trong khi người ta xây nền của đền mới tại trước mặt mình. Cũng có nhiều người khác lại la tiếng lớn vui mừng hớn-hở; 13 nên người ta khó phân-biệt tiếng vui-mừng với tiếng khóc-lóc; vì dân-sự la lớn tiếng lên, và tiếng ấy vẳng-vẳng nghe xa.

Các thù-nghịch dân Giu-đa ngăn-cản việc xây-cất đền-thờ

4 1 Khi các thù-nghịch của Giu-đa và Bên-gia-min hay rằng những người đã bị bắt làm phu-tù được về cất đền-thờ cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, 2 bèn đi đến Xô-rô-ba-bên và các trưởng-tộc mà nói rằng: Chúng tôi muốn đồng xây-cất với các ngươi, vì chúng tôi tìm-cầu Đức Chúa Trời của anh em, cũng như anh em, và chúng tôi đã tế-lễ cho Ngài từ đời Ê-sa-Ha-đôn, vua A-si-ri, đem chúng tôi lên đây, 3 Nhưng Xô-rô-ba-bên, Giê-sua, và các trưởng-tộc khác của Y-sơ-ra-ên, đáp với chúng rằng: Các ngươi chẳng được phần chung với chúng ta đặng cất một đền-thờ cho Đức Chúa Trời của chúng ta; song chúng ta, chỉ một mình chúng ta, sẽ cất một đền cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, y như Si-ru, vua Phe-rơ-sơ, đã truyền bảo chúng ta.

4 Bấy giờ dân của xứ xui cho dân Giu-đa ngã lòng nhát-sợ, trong khi họ xây-cất; 5 và trọn đời Si-ru, vua Phe-rơ-sơ, cho đến đời Đa-ri-út, vua Phe-rơ-sơ, trị-vì, chúng đem hối-lộ cho những mưu-sĩ chống với dân Giu-đa, đặng phá việc họ lo-toan.

< Lui    Trang Lịch     Tới >