Ngày 22 tháng Mười

< Lui     Trang Lịch     Tới >

Đọc Lu-ca 3:1-6; Ma-thi-ơ 3:4-6; Lu-ca 3:7-18; Ma-thi-ơ 3:13-17; Lu-ca 3:23; Ma-thi-ơ 4:1-11; Giăng 1:19-34

Chức vụ của Giăng Báp-tít

Khi đến lúc Chúa Giê-su thực hiện sứ mạng thiêng liêng của mình, nền tảng đã được chuẩn bị sẵn bởi chức vụ thành công của Giăng Báp-tít, người tuyên bố Chúa Giê-su là “Chiên Con của Đức Chúa Trời,” qua đó tạo tiền đề cho tuyên bố của chính Chúa Giê-su rằng Ngài là Đấng Mê-si. Như đã thấy rất nhiều lần trước đây, dân Do Thái đã chờ đợi sự đến của Đấng Mê-si được tiên tri, tin rằng Ngài sẽ giải thoát họ khỏi ách thống trị chính trị và trở thành một nhà lãnh đạo dân tộc lý tưởng. Điều họ không mong đợi là một nhà lãnh đạo nổi lên từ dân thường—cũng không phải là một vương quốc thiêng liêng về bản chất—và thiết lập một nước thần quyền tâm linh hơn là một vương quốc chính trị. Có lẽ vì chính sự hiểu lầm này, Giăng Báp-tít được kêu gọi để chuẩn bị đường cho Chúa Giê-su và làm chứng thay mặt cho Ngài. Chính với sự tuyên bố về chức vụ đặc biệt của Chúa Giê-su này mà thông điệp phúc âm bắt đầu trọng tâm chính của nó, như được thấy qua việc chỉ tại thời điểm này Mác và Giăng mới bắt đầu ghi lại Phúc Âm của họ.

Giăng Báp-tít, giống như Ê-li Giu, không phải là nhà văn mà là nhà truyền giáo và người phát ngôn cho Đức Chúa Trời, người có lời giảng không thể lay chuyển về sự ăn năn và phép báp-têm mang lại cho ông vô số môn đồ. Một số môn đồ này sẽ trở nên tận tâm đến mức với Giăng và giáo lý của ông rằng họ sẽ không chấp nhận ngay cả thần tính của Chúa Giê-su, mà Giăng được sai đến để tuyên bố. Như với hầu hết các tiên tri đồng nghiệp của mình, việc giảng dạy của Giăng về sự trong sạch tâm linh đi kèm với những lời kêu gọi mạnh mẽ về đạo đức thực tế hướng tới người theo mình.

Sống phần lớn thời gian ở những khu vực sa mạc và tồn tại với chế độ ăn châu chấu và mật ong, Giăng tạo ra hình ảnh của một người đàn ông hoang dã khổ hạnh nào đó. Tuy nhiên, lối sống của ông có lẽ được quyết định nhiều hơn bởi sự cần thiết hơn là tính lập dị, và không hề xúc phạm những người đến từ các thành phố để nghe ông. Câu hỏi hấp dẫn hơn là tại sao những người thành phố tinh tế lại đi xa để được dạy bởi một người đàn ông hoang dã có lời giảng đòi hỏi khắc nghiệt và đầy thách thức. Có thể, một cách trớ trêu, sự hấp dẫn của Giăng nằm trong chính tính khắt khe của thông điệp ông, điều này trái ngược hoàn toàn với đạo giáo nhẹ nhàng được rao giảng bởi các nhà lãnh đạo tôn giáo tìm kiếm sự ủng hộ phổ biến? Có thể là lời kêu gọi của Giăng về sự trong sạch cá nhân và tính công chính cá nhân được coi là một sự thay đổi mới mẻ từ chủ nghĩa nghi lễ và tôn giáo thể chế đã phát triển qua các thế kỷ? Dù lý do nào đi nữa, chức vụ của ông được tôn vinh cao nhất khi ngay cả chính Chúa Giê-su cũng đến nhận phép báp-têm của Giăng. Mặc dù không phải vì tội lỗi mà Chúa Giê-su được báp-têm, hành động mẫu mực của nghi lễ rửa tội này tạo cơ hội cho một sự xác nhận ấn tượng về thần tính của Ngài.

Sự sửa-soạn về chức-vụ Đức Chúa Jêsus
(Từ 3 : 1 đến 4: 13)

Chức-vụ giảng đạo của Giăng Báp-tít

(Lu-ca) 3 1 Năm thứ mười lăm đời Sê-sa Ti-be-rơ, — khi Bôn-xơ Phi-lát làm quan tổng-đốc xứ Giu-đê, Hê-rốt làm vua chư-hầu xứ Ga-li-lê, Phi-líp em vua ấy làm vua chư-hầu xứ Y-tu-rê và tỉnh Tra-cô-nít, Ly-sa-ni-a làm vua chư-hầu xứ A-by-len, 2 An-ne và Cai-phe làm thầy cả thượng-phẩm, — thì có lời Đức Chúa Trời truyền cho Giăng, con Xa-cha-ri, ở nơi đồng vắng. 3 Giăng bèn dạo qua hết thảy miền lân-cận sông Giô-đanh, giảng-dạy phép báp-têm về sự ăn-năn để được tha tội, 4 như lời đã chép trong sách đấng tiên-tri Ê-sai rằng:

Có tiếng kêu-la trong đồng vắng:
Hãy dọn đường Chúa, ban bằng các nẻo Ngài.
5Mọi nơi sũng-thấp sẽ lấp cho đầy,
Các núi các gò thì bị hạ xuống;
Đường quanh-quẹo thì làm cho ngay,
Đường gập-ghềnh thì làm cho bằng;
6Và mọi loài xác-thịt sẽ thấy sự cứu của Đức Chúa Trời. 

(Ma-thi-ơ) 3 4 Vả, Giăng mặc áo bằng lông lạc-đà, buộc dây lưng bằng da; ăn, thì ăn những châu-chấu và mật ong rừng. 5 Bấy giờ, dân thành Giê-ru-sa-lem, cả xứ Giu-đê, và cả miền chung-quanh sông Giô-đanh đều đến cùng người; 6 và khi họ đã xưng tội mình rồi, thì chịu người làm phép báp-têm dưới sông Giô-đanh.

(Lu-ca) 3 7 Vậy, Giăng nói cùng đoàn dân đến để chịu mình làm phép báp-têm rằng: Hỡi dòng-dõi rắn lục, ai đã dạy các ngươi tránh khỏi cơn thạnh-nộ ngày sau? 8 Thế thì, hãy kết-quả xứng-đáng với sự ăn-năn; và đừng tự nói rằng: Áp-ra-ham là tổ-phụ chúng ta; vì ta nói cùng các ngươi, Đức Chúa Trời có thể khiến từ những đá nầy sanh ra con-cái cho Áp-ra-ham được. 9 Cái búa đã để kề gốc cây; hễ cây nào không sanh trái tốt thì sẽ bị đốn và chụm.

10 Chúng bèn hỏi Giăng rằng: Vậy thì chúng tôi phải làm gì? 11 Người đáp rằng: Ai có hai áo, hãy lấy một cái cho người không có; và ai có đồ-ăn cũng nên làm như vậy. 12 Cũng có những người thâu thuế đến để chịu phép báp-têm; họ hỏi rằng: Thưa thầy, chúng tôi phải làm gì? 13 Người nói rằng: Đừng đòi chi ngoài số luật định. 14 Quân-lính cũng hỏi rằng: Còn chúng tôi phải làm gì? Người nói rằng: Đừng hà-hiếp, đừng phỉnh-gạt ai hết, nhưng hãy bằng lòng về lương-hướng mình.

15 Bởi dân-chúng vẫn trông-đợi, và ai nấy đều tự hỏi trong lòng nếu Giăng phải là Đấng Christ chăng, 16 nên Giăng cất tiếng nói cùng mọi người rằng: Phần ta làm phép báp-têm cho các ngươi bằng nước; song có một Đấng quyền-phép hơn ta sẽ đến, ta không đáng mở dây giày Ngài. Chính Ngài sẽ làm phép báp-têm cho các ngươi bằng Đức Thánh-Linh và bằng lửa. 17 Tay Ngài sẽ cầm nia mà giê thật sạch sân lúa mình, và thâu lúa mì vào kho; nhưng đốt trấu trong lửa chẳng hề tắt.

18 Trong khi Giăng rao-truyền tin lành, thì cũng khuyên-bảo dân-chúng nhiều đều nữa.

Đức Chúa Jêsus chịu phép báp-têm

(Ma-thi-ơ) 3 13 Khi ấy, Đức Chúa Jêsus từ xứ Ga-li-lê đến cùng Giăng tại sông Giô-đanh, đặng chịu người làm phép báp-têm. 14 Song Giăng từ-chối mà rằng: Chính tôi cần phải chịu Ngài làm phép báp-têm, mà Ngài lại trở đến cùng tôi sao! Đức Chúa Jêsus đáp rằng: 15 Bây giờ cứ làm đi, vì chúng ta nên làm cho trọn mọi việc công-bình như vậy. Giăng bèn vâng lời Ngài. 16 Vừa khi chịu phép báp-têm rồi, Đức Chúa Jêsus ra khỏi nước; bỗng-chúc các từng trời mở ra, Ngài thấy Thánh-Linh của Đức Chúa Trời ngự xuống như chim bò-câu, đậu trên Ngài. 17 Tức thì có tiếng từ trên trời phán rằng: Nầy là Con yêu-dấu của ta, đẹp lòng ta mọi đàng.

(Lu-ca) 3 23 Khi Đức Chúa Jêsus khởi-sự làm chức-vụ mình thì Ngài có độ ba mươi tuổi. 

Chúa Giê-su Đối Mặt với Những Cám Dỗ

Một trong những câu hỏi lớn, chưa được trả lời về bản sắc của Chúa Giê-su là liệu Ngài, với tư cách là Đức Chúa Trời trong xác thịt, có dễ bị tổn thương trước những cám dỗ giống như tất cả mọi người khác đối mặt hay không. Mặc dù không phải mọi cám dỗ mà Chúa Giê-su có thể gặp phải đều được tìm thấy trong các sự tường thuật Phúc Âm, các tác giả ghi lại một loạt những cám dỗ đại diện cho hầu hết những cám dỗ mà con người phải đối mặt. Trong các cuộc gặp gỡ khác nhau với Sa-tan, Chúa Giê-su phải đối phó với nhu cầu thỏa mãn những ham muốn xác thịt, sự thôi thúc tìm kiếm điều làm hài lòng mắt, và mong muốn bày tỏ lòng kiêu ngạo.

Đây không phải là một bài tập học thuật. Như Ngài làm với mọi người khác, Sa-tan đối đầu với Chúa Giê-su khi Ngài dễ bị tổn thương nhất. Chúa Giê-su vừa mới có một trải nghiệm tâm linh đỉnh cao trên núi: Ngài đã được tôn vinh bởi tiếng nói từ thiên đàng. Thật cám dỗ biết bao nếu khoe khoang thần tính của mình một cách ấn tượng! Ngài vừa bắt đầu sứ mạng của mình đến một thế giới đang tuyệt vọng tìm kiếm một nhà lãnh đạo. Thật cám dỗ biết bao nếu giành được sự trung thành của cả thế giới trong một đòn quyết định! Và vào thời điểm cám dỗ đầu tiên, Chúa Giê-su đã bị suy yếu về thể chất do nhịn ăn 40 ngày. Thật cám dỗ biết bao nếu tạo ra thứ gì đó thỏa mãn cơn đói bình thường của con người!

Trong mọi trường hợp, phản ứng của Chúa Giê-su đối với cám dỗ đều giống nhau. Một mình trong sa mạc cám dỗ, Chúa Giê-su—dù Ngài là thần—nhận ra giá trị của cầu nguyện và nhịn ăn, và với mỗi cám dỗ, Ngài nhớ lại những lời của Kinh Thánh, là lời nhắc nhở về sự thật và khôn ngoan trước những lời dối trá của Sa-tan.

Đức Chúa Jêsus bị ma-quỉ cám-dỗ

(Ma-thi-ơ) 4 1 Bấy giờ, Đức Thánh-Linh đưa Đức Chúa Jêsus đến nơi đồng-vắng, đặng chịu ma-quỉ cám-dỗ. 2 Ngài đã kiêng ăn bốn mươi ngày bốn mươi đêm rồi, sau thì đói. 3 Quỉ cám-dỗ đến gần Ngài, mà nói rằng: Nếu ngươi phải là Con Đức Chúa Trời, thì hãy khiến đá nầy trở nên bánh đi. 4 Đức Chúa Jêsus đáp: Có lời chép rằng: Người ta sống chẳng phải chỉ nhờ bánh mà thôi, song nhờ mọi lời nói ra từ miệng Đức Chúa Trời.

5 Ma-quỉ bèn đem Ngài vào nơi thành thánh, đặt Ngài trên nóc đền-thờ, 6 và nói rằng: Nếu ngươi phải là Con Đức Chúa Trời, thì hãy gieo mình xuống đi; vì có lời chép rằng:

Chúa sẽ truyền các thiên-sứ gìn-giữ ngươi, thì
Các đấng ấy sẽ nâng ngươi trong tay,
Kẻo chơn ngươi vấp nhằm đá chăng.

7 Đức Chúa Jêsus phán: Cũng có lời chép rằng: Ngươi đừng thử Chúa là Đức Chúa Trời ngươi.

8 Ma-quỉ lại đem Ngài lên trên núi rất cao, chỉ cho Ngài các nước thế-gian, cùng sự vinh-hiển các nước ấy; 9 mà nói rằng: Ví bằng ngươi sấp mình trước mặt ta mà thờ-lạy, thì ta sẽ cho ngươi hết thảy mọi sự nầy. 10 Đức Chúa Jêsus bèn phán cùng nó rằng: Hỡi quỉ Sa-tan, ngươi hãy lui ra! Vì có lời chép rằng: Ngươi phải thờ-phượng Chúa là Đức Chúa Trời ngươi, và chỉ hầu việc một mình Ngài mà thôi. 11 Ma-quỉ bèn bỏ đi; liền có thiên-sứ đến gần mà hầu việc Ngài.

Trong suốt cuộc đời mình, Chúa Giê-su sẽ tiếp tục chống lại mọi sự cám dỗ và duy trì tình trạng không phạm tội. Chính sự công bình hoàn hảo của Ngài—vượt xa cả sự công bình của những tiên tri vĩ đại như Ê-li-gia và bây giờ là Giăng Báp-tít—chứng tỏ Chúa Giê-su là Đấng Mê-si. Nhờ lời tuyên bố về nước thiên đàng mà ông chứng kiến, Giăng tin chắc rằng Chúa Giê-su không chỉ công bình không thể so sánh, mà còn thực sự là Đấng Chịu Xức Dầu, Đấng Christ. Do đó Giăng bác bỏ mọi khả năng bị coi là Đấng Mê-si, và hết lòng tuyên bố Chúa Giê-su là Chiên Con của Đức Chúa Trời.

Sự sắm-sửa về chức-vụ Đức Chúa Jêsus
(1 : 19-51)

Lời chứng của Giăng Báp-tít

(Giăng) 119 Nầy là lời chứng của Giăng, khi dân Giu-đa sai mấy thầy tế-lễ, mấy người Lê-vi từ thành Giê-ru-sa-lem đến hỏi người rằng: Ông là ai? 20 Người xưng ra, chẳng chối chi hết, xưng rằng mình không phải là Đấng Christ. 21 Họ lại hỏi: Vậy thì ông là ai? phải là Ê-li chăng? Người trả lời: Không phải. Ông phải là đấng tiên-tri chăng? Người trả lời: Không phải. 22 Họ bèn nói: Vậy thì ông là ai? hầu cho chúng tôi trả lời cùng những người đã sai chúng tôi đến. Ông tự xưng mình là ai? 23 Người trả lời: Ta là tiếng của người kêu trong đồng vắng rằng: Hãy ban đường của Chúa cho bằng, như đấng tiên-tri Ê-sai đã nói. 24 Những kẻ chịu sai đến cùng Giăng đều là người Pha-ri-si. 25 Họ lại hỏi rằng: Nếu ông chẳng phải Đấng Christ, chẳng phải Ê-li, chẳng phải đấng tiên-tri, thì cớ sao ông làm phép báp-têm? 26 Giăng trả lời: Về phần ta, ta làm phép báp-têm bằng nước; nhưng có một Đấng ở giữa các ngươi mà các ngươi không nhận biết. 27 Ấy là Đấng đến sau ta, ta chẳng đáng mở dây giày Ngài. 28 Những việc đó đã xảy ra tại thành Bê-tha-ni, bên kia sông Giô-đanh, là nơi Giăng làm phép báp-têm.

29 Qua ngày sau, Giăng thấy Đức Chúa Jêsus đến cùng mình, thì nói rằng: Kìa, Chiên con của Đức Chúa Trời, là Đấng cất tội-lỗi thế-gian đi. 30 Ấy về Đấng đó mà ta đã nói: Có một người đến sau ta, trổi hơn ta, vì người vốn trước ta. 31 Về phần ta, ta vốn chẳng biết Ngài; nhưng ta đã đến làm phép báp-têm bằng nước, để Ngài được tỏ ra cho dân Y-sơ-ra-ên. 32 Giăng lại còn làm chứng nầy nữa: Ta đã thấy Thánh-Linh từ trời giáng xuống như chim bò-câu, đậu trên mình Ngài. 33 Về phần ta, ta vốn không biết Ngài; nhưng Đấng sai ta làm phép báp-têm bằng nước có phán cùng ta rằng: Đấng mà ngươi sẽ thấy Thánh-Linh ngự xuống đậu lên trên, ấy là Đấng làm phép báp-têm bằng Đức Thánh-Linh. 34 Ta đã thấy, nên ta làm chứng rằng: Ấy chính Ngài là Con Đức Chúa Trời.

< Lui    Trang Lịch     Tới >