Lời nói khôn ngoan và ngu dại
Châm ngôn 14 3 Trong miệng kẻ ngu-dại có cây roi đánh phạt sự kiêu-ngạo nó;
Song môi người khôn-ngoan giữ lấy người.
15 2 Lưỡi người khôn-ngoan truyền ra sự tri-thức cách phải;
Nhưng miệng kẻ ngu-muội chỉ buông đều điên-cuồng.
3 Con mắt Đức Giê-hô-va ở khắp mọi nơi,
Xem-xét kẻ gian-ác và người lương-thiện.
4 Lưỡi hiền-lành giống như một cây sự sống;
Song lưỡi gian-tà làm cho hư-nát tâm-thần.
5 Kẻ ngu-dại khinh sự khuyên-dạy của cha mình;
Còn ai giữ theo lời quở-trách trở nên khôn-khéo.
6 Trong nhà người công-bình có nhiều vật quí;
Song trong huê-lợi kẻ gian-ác có đều rối-loạn.
7 Môi người khôn-ngoan rải sự tri-thức ra;
16 23 Lòng người khôn-ngoan dạy-dỗ miệng mình,
Và thêm sự học-thức nơi môi của mình.
18 6 Môi kẻ ngu-muội vào cuộc tranh-cạnh,
Và miệng nó chiều sự đánh-đập.
7 Miệng kẻ ngu-muội là sự bại-hoại của nó;
Môi nó vốn một cái bẫy gài linh-hồn của nó.
19 1 Thà người nghèo-khổ ăn-ở thanh-liêm,
Còn hơn là kẻ có môi miệng gian-tà và là một kẻ ngây-dại.
23 15 Hỡi con, nếu lòng con khôn-ngoan,
Thì lòng ta cũng sẽ được vui-mừng;
16 Phải, chánh ruột-gan ta sẽ hớn-hở
Khi miệng con nói đều ngay-thẳng.
Lời nói của người công bình và kẻ ác
10 20 Lưỡi người công-bình giống như bạc cao;
Còn lòng kẻ hung-ác không ra gì.
21 Môi miệng người công-bình nuôi dạy nhiều người;
Nhưng kẻ ngu-dại chết, vì thiếu trí hiểu.
31 Miệng người công-bình sanh sự khôn-ngoan;
Duy lưỡi của kẻ gian-tà sẽ bị truất.
32 Môi người công-bình biết đều đẹp ý;
Nhưng miệng kẻ hung-ác chỉ nói sự gian-tà.
11 11 Nhờ người ngay-thẳng chúc phước cho, thành được cao-trọng;
Song tại miệng kẻ tà-ác, nó bị đánh đổ.
12 13 Trong sự vi-phạm của môi-miệng có một cái bẫy tàn-hại;
Nhưng người công-bình được thoát-khỏi sự hoạn-nạn.
14 Nhờ bông-trái của môi-miệng mình, người sẽ được no-đầy phước;
Và người ta sẽ được báo lại tùy theo việc tay mình đã làm.
13 2 Nhờ bông-trái của miệng mình, người hưởng lấy sự lành;
Còn linh-hồn kẻ gian-ác sẽ ăn đều cường-bạo.
15 28 Lòng người công-bình suy-nghĩ lời phải đáp;
Nhưng miệng kẻ ác buông ra đều dữ.
17 4 Kẻ làm ác chăm-chỉ về môi gian-ác;
Kẻ hay nói dối lắng tai nghe lưỡi độc-hiểm.
Lời nói phải thì
15 23 Miệng hay đáp giỏi khiến người vui-vẻ;
Và lời nói phải thì lấy làm tốt biết bao!
16 21 Ai có lòng khôn-ngoan được gọi là thông-sáng;
Lời dịu-dàng gia-thêm sự tri-thức.
24 Lời lành giống như tàng ong,
Ngon-ngọt cho tâm-hồn, và khỏe-mạnh cho xương-cốt.
25 11 Lời nói phải thì,
Khác nào trái bình bát bằng vàng có cẩn bạc.
27 14 Kẻ nào chổi-dậy sớm chúc phước lớn tiếng cho bạn-hữu mình,
Người ta sẽ kể đều đó là sự rủa-sả.
Cầm giữ miệng mình
10 19 Hễ lắm lời, vi-phạm nào có thiếu;
Nhưng ai cầm-giữ miệng mình là khôn-ngoan.
12 23 Người khôn-khéo giấu đều mình biết;
Còn lòng kẻ ngu-muội xưng ra sự điên-dại mình.
13 3 Kẻ canh-giữ miệng mình, giữ được mạng-sống mình;
Nhưng kẻ nào hở môi quá, bèn bị bại-hoại.
17 28 Khi nín-lặng, dầu người ngu-dại, cũng được cầm bằng khôn-ngoan;
Còn kẻ nào ngậm môi-miệng mình lại được kể là thông-sáng.
18 13 Trả lời trước khi nghe,
Ấy là sự điên-dại và hổ-thẹn cho ai làm vậy.
21 23 Ai giữ lấy miệng và lưỡi mình
Giữ linh-hồn mình khỏi hoạn-nạn.
Kiểm soát lời nói
15 1 Lời đáp êm-nhẹ làm nguôi cơn-giận;
Còn lời xẳng-xớm trêu thạnh-nộ thêm.
17 27 Người nào kiêng lời nói mình có tri-thức;
Còn người có tánh ôn-hàn là một người thông-sáng.
25 15 Hằng chậm nóng-giận mới khuyên được lòng của quan-trưởng;
Còn lưỡi mềm-dịu bẻ gãy các xương.
Nịn hót
26 28 Lưỡi giả-dối ghét những kẻ nó đã chà-nát;
Và miệng dua-nịnh gây đều bại-hoại.
28 23 Ai quở-trách người nào, về sau sẽ được ơn
Hơn là kẻ lấy lưỡi mà dua-nịnh.
29 5 Người nào dua-nịnh kẻ lân-cận mình,
Giăng lưới trước bước người.
Vu khống và nói xấu
10 18 Người giấu sự ghen-ghét có môi dối-giả;
Và ai rải đều nói hành là kẻ ngu-dại.
11 13 Kẻ đi thèo-lẻo tỏ ra đều kín-đáo;
Còn ai có lòng trung-tín giữ kín công-việc.
16 28 Kẻ gian-tà gieo đều tranh-cạnh;
Và kẻ thèo-lẻo phân-rẽ những bạn thiết cốt.
17 9 Kẻ nào lấp giấu tội-lỗi tìm-cầu đều tình-ái;
Còn ai nhắc lập lại đều gì chia-rẽ bạn-bậu thiết-cốt.
18 8 Lời kẻ thèo-lẻo như vật-thực ngon,
Và nó thấu đến ruột gan.
20 19 Kẻ nào đi thèo-lẻo bầy-tỏ đều kín-đáo;
Vậy, chớ giao-thông với kẻ hay hở môi quá.
26 20 Lửa tắt tại thiếu củi;
Khi chẳng có ai thèo-lẻo cuộc tranh-cạnh bèn nguôi.
Lời nói xúc phạm
11 12 Kẻ nào khinh-dể người lân-cận mình thiếu trí hiểu;
Nhưng người khôn-sáng làm thinh.
12 18 Lời vô độ đâm-xoi khác nào gươm;
Nhưng lưỡi người khôn-ngoan vốn là thuốc hay.
15 4 Lưỡi hiền-lành giống như một cây sự sống;
Song lưỡi gian-tà làm cho hư-nát tâm-thần.
16 27 Thằng điếm toan mưu hại người ta;
Và trên môi nó có như ngọn lửa hừng.
25 23 Gió bắc sanh ra mưa;
Còn lưỡi nói hành cách kín-đáo gây cho mặt-mày giận-dữ.
26 2 Như chim sẻ bay đi đây đó, như con én liệng đi,
Lời rủa-sả vô-cớ cũng vậy, nó chẳng hề xảy đến.
Cãi lẫy
17 14 Khởi đầu tranh-cạnh, ấy như người ta mở đường nước chảy;
Vậy, khá thôi cãi-lẫy trước khi đánh lộn.
19 Ai ưa tranh-cạnh ưa tội-lỗi;
Ai xây-cất cửa mình cao kiếm đều hư-sập.
20 3 Nồi dót để luyện bạc, lò để luyện vàng;
Nhưng Đức Giê-hô-va thử lòng của loài người.
22 10 Hãy đuổi kẻ nhạo-báng ra, thì sự cãi-lẫy cũng sẽ đi;
Đều tranh-cạnh và sự sỉ-nhục sẽ hết.
26 21 Than chụm cho than đỏ, và củi để chụm lửa;
Người hay tranh-cạnh xui nóng cãi-cọ cũng vậy.
Nói dối
12 19 Môi chân-thật được bền-đỗ đời đời;
Song lưỡi giả-dối chỉ còn một lúc mà thôi.
22 Môi-miệng nói dối-giả lấy làm gớm-ghiếc cho Đức Giê-hô-va;
Song ai ăn-ở trung-thành được đẹp lòng Ngài.
17 20 Kẻ nào có lòng vạy-vò không tìm được phước-hạnh;
Và ai có lưỡi gian-tà sẽ sa vào tai-hại.
19 5 Chứng gian nào chẳng bị phạt;
Và kẻ buông đều giả-dối không sao thoát-khỏi.
22 Lòng nhơn-từ của người làm cho người ta yêu-chuộng mình;
Và người nghèo-khổ là hơn kẻ nói dối.
21 6 Tài-vật nhờ dùng lưỡi dối-gạt mà được,
Ấy là một đều hư-không mau hết của kẻ tìm sự chết.
Quyền năng của lưỡi
20 Bụng người sẽ được no-nê bông-trái của miệng mình;
Huê-lợi môi miệng mình sẽ làm cho người no đủ.
21 Sống chết ở nơi quyền của lưỡi;
Kẻ ái-mộ nó sẽ ăn bông-trái của nó.