Lễ Cung Hiến Đền Thờ
Đền thờ và các đồ trang trí của nó đã hoàn thành, Sa-lô-môn triệu tập dân chúng lại để long trọng cung hiến đền thờ cho Đức Chúa Trời sử dụng và tôn vinh. Sa-lô-môn nhắc nhở dân sự về mối quan hệ giao ước được biểu thị qua đền thờ, và do đó về nghĩa vụ của họ phải trung thành với Đức Chúa Trời. Lời cầu nguyện cung hiến của Sa-lô-môn xin Đức Chúa Trời lắng nghe lời cầu nguyện của dân sự và ban phước cho họ trong những lúc đặc biệt khó khăn. Khi lễ cung hiến bắt đầu, đền tạm cũ được đem đến địa điểm đền thờ.
Thỉnh hòm giao-ước vào trong đền-thờ
(2 Sử ký) 5 2 Sa-lô-môn bèn nhóm tại Giê-ru-sa-lem các trưởng-lão Y-sơ-ra-ên, các trưởng của các chi-phái, và các trưởng-tộc dân Y-sơ-ra-ên, đặng rước hòm giao-ước của Đức Giê-hô-va lên từ thành Đa-vít, là Si-ôn. 3 Mọi người Y-sơ-ra-ên đều nhóm lại đến cùng vua nhằm kỳ lễ tháng bảy. 4 Các trưởng-lão Y-sơ-ra-ên đều đến, và người Lê-vi khiêng hòm đi. 5 Những thầy tế-lễ và người Lê-vi đều đem lên cái hòm, hội-mạc, và các khí-dụng thánh vốn ở trong trại. 6 Vua Sa-lô-môn và cả hội-chúng Y-sơ-ra-ên đã nhóm lại với vua, đều đứng trước hòm, dâng những chiên và bò làm của-lễ nhiều, vô-số không thể đếm được. 7 Những thầy tế-lễ đem hòm giao-ước của Đức Giê-hô-va vào nơi dọn cho hòm, tức trong nơi chí-thánh của đền, dưới cánh chê-ru-bin. 8 Hai chê-ru-bin sè cánh ra trên chỗ hòm, che hòm và đòn-khiêng. 9 Đòn-khiêng thì dài, nên đầu đòn thấy ló ra ngoài hòm, trước nơi chí-thánh; nhưng ở ngoài đền thì chẳng thấy; hòm vẫn ở đó cho đến ngày nay. 10 Chẳng có gì trong hòm, trừ ra hai bảng luật-pháp mà Môi-se đã để vào tại Hô-rếp, khi Đức Giê-hô-va lập giao-ước với dân Y-sơ-ra-ên, lúc chúng ra khỏi Ê-díp-tô.
11 Khi những thầy tế-lễ ra khỏi nơi thánh (vì phàm thầy tế-lễ ở đó đều đã dọn mình ra thánh-sạch, mà chưa giữ theo ban-thứ nào), 12 và các người ca-hát trong dân Lê-vi, tức A-sáp, Hê-man, Giê-đu-thun, cùng con trai và anh em họ, đương mặc quần-áo bằng vải gai mịn, cầm chập-chỏa, đờn-sắt, và đờn-cầm, đều đứng ở phía đông bàn-thờ, với một trăm hai mươi thầy tế-lễ thổi kèn. 13 Xảy khi kẻ thổi kèn và kẻ ca-hát đồng-thinh hòa nhau như một người, mà khen-ngợi cảm-tạ Đức Giê-hô-va, và khi họ trổi tiếng kèn, chập-chỏa, nhạc-khí lên khen-ngợi Đức Giê-hô-va, rằng: Ngài từ-thiện, lòng thương-xót Ngài hằng có đời đời, thì đền của Đức Giê-hô-va bị mây lấp đầy; 14 đến đỗi những thầy tế-lễ vì mây không thể đứng đó hầu-việc được, vì sự vinh-hiển của Đức Giê-hô-va đầy lấp đền của Đức Chúa Trời.
Lễ khánh-thành đền-thờ, và bài cầu-nguyện của Sa-lô-môn
6 1 Bấy giờ, Sa-lô-môn nói rằng: Đức Giê-hô-va đã phán rằng Ngài sẽ ngự trong nơi tối-thẳm. 2 Nhưng tôi đã cất một cái đền cho Chúa trú-ngụ, một nơi cho Chúa ở đời đời. 3 Đoạn vua xây mặt lại chúc phước cho cả hội-chúng Y-sơ-ra-ên; cả hội-chúng Y-sơ-ra-ên đều đứng. 4 Người nói: Đáng ngợi-khen Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, là Đấng đã phán hứa với Đa-vít, cha tôi, và nay lấy tay Ngài mà làm cho thành lời hứa ấy; Ngài rằng: 5 Từ ngày ta đem dân ta ra khỏi xứ Ê-díp-tô, ta chưa chọn một thành nào trong các chi-phái Y-sơ-ra-ên đặng cất một cái đền, để đặt danh ta tại đó, và ta cũng chẳng chọn người nào làm vua-chúa trên dân Y-sơ-ra-ên ta; 6 nhưng ta đã chọn Giê-ru-sa-lem, để đặt danh ta tại đó, và chọn Đa-vít đặng cai-trị dân Y-sơ-ra-ên ta. 7 Vả, Đa-vít, cha tôi, đã rắp lòng xây đền cho danh Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. 8 Nhưng Đức Giê-hô-va phán với Đa-vít, cha tôi, rằng: Ngươi có rắp lòng cất một cái đền cho danh ta, ấy thật phải lắm; 9 dầu vậy, ngươi sẽ chẳng cất đền ấy; song con trai ngươi sanh ra sẽ cất cái đền cho danh ta. 10 Đức Giê-hô-va đã làm ứng-nghiệm lời Ngài phán, khiến tôi kế cho Đa-vít, cha tôi, lên ngôi trị-vì Y-sơ-ra-ên, y như Đức Giê-hô-va đã hứa: nên tôi có cất đền cho danh Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, 11 và tại đền ấy đã đặt cái hòm đựng giao-ước của Đức Giê-hô-va mà Ngài lập với dân Y-sơ-ra-ên.
12 Sa-lô-môn đương đứng trước bàn-thờ của Đức Giê-hô-va, đối mặt cả hội-chúng Y-sơ-ra-ên, giơ tay mình ra 13 (vì người đã đóng một cái sạp bằng đồng, bề dài năm thước, bề ngang năm thước, bề cao ba thước, để tại giữa hành-lang; người đứng tại đó, quì gối xuống trước mặt cả hội-chúng Y-sơ-ra-ên, giơ tay lên trên trời), 14 mà rằng: Lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên! trên trời và dưới đất, chẳng có thần nào giống như Chúa. Chúa gìn-giữ lời giao-ước và lòng nhơn-từ đối với kẻ tôi-tớ Chúa, là kẻ hết lòng đi trước mặt Chúa; 15 đối với tôi-tớ Chúa là Đa-vít, cha tôi, Chúa có gìn-giữ lời Chúa đã hứa với người: Thật hễ đều gì miệng Chúa phán, thì tay Chúa đã làm cho hoàn-thành, y như đã có ngày nay. 16 Vậy, Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên ôi! Chúa đã hứa cùng tôi-tớ Chúa là Đa-vít, cha tôi, rằng: Ví bằng con-cháu ngươi cẩn-thận đường-lối mình, giữ theo các luật-pháp ta, y như ngươi đã làm, thì trước mặt ta ngươi sẽ chẳng hề thiếu người ngồi trên ngôi Y-sơ-ra-ên; nay cầu-xin Chúa hãy giữ-gìn lời hứa ấy. 17 Hỡi Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên! nguyện lời Chúa đã hứa cùng Đa-vít, tôi-tớ Chúa, được ứng-nghiệm. 18 Mà chi! Có thật rằng Đức Chúa Trời ngự chung với loài người ở trên đất ư? Kìa trời, cho đến đỗi trời của các từng trời còn chẳng có thế chứa Chúa được thay, phương chi cái đền nầy tôi đã cất! 19 Dầu vậy, hỡi Giê-hô-va Đức Chúa Trời tôi ôi! xin hãy đoái thương lời cầu-nguyện và sự nài-xin của tôi-tớ Chúa, nghe tiếng kêu-cầu và khẩn-nguyện của tôi-tớ Chúa cầu trước mặt Chúa. 20 Nguyện mắt Chúa ngày và đêm đoái xem nhà nầy, vì về nhà nầy Chúa đã phán rằng: sẽ đặt danh Chúa tại đó. Khi tôi-tớ Chúa hướng nơi nầy mà cầu-nguyện, xin Chúa dủ nghe. 21 Phàm đều gì tôi-tớ Chúa và dân Y-sơ-ra-ên của Chúa sẽ cầu-khẩn trong khi hướng về nơi nầy, xin Chúa hãy dủ nghe; phải, ở nơi ngự của Chúa tại trên các từng trời, xin Chúa dủ nghe, nhậm lời, và tha thứ cho.
22 Nếu ai phạm tội cùng kẻ lân-cận mình, và người ta bắt nó phải thề, nếu nó đến thề ở trước bàn-thờ của Chúa tại trong đền nầy, 23 thì xin Chúa từ trên trời hãy nghe, thi-hành, và xét-đoán tôi-tớ Chúa, mà báo-trả kẻ ác tùy việc nó làm, khiến tội nó đổ lại trên đầu nó, xưng công-bình cho người công-bình, và thưởng người tùy sự công-bình của người.
24 Nếu dân Y-sơ-ra-ên của Chúa, vì phạm tội với Chúa, bị quân thù-nghịch đánh được, mà chúng trở lại cùng Chúa, nhận-biết danh Ngài, và cầu-nguyện nài-xin trước mặt Chúa trong đền nầy, 25 thì xin Chúa từ trên trời hãy dủ nghe, tha tội cho dân Y-sơ-ra-ên của Chúa, và khiến họ trở về xứ mà Chúa đã ban cho họ và cho tổ-phụ của họ.
26 Khi các từng trời đóng chặt, không có mưa, bởi vì dân Y-sơ-ra-ên đã phạm tội với Chúa; nếu sau khi Chúa đã đoán-phạt họ, họ hướng về nơi nầy mà cầu-nguyện, nhận-biết danh Chúa, trở bỏ tội-lỗi mình, 27 thì xin Chúa ở trên trời hãy dủ nghe, tha tội cho kẻ tôi-tớ Chúa và cho dân Y-sơ-ra-ên của Ngài, khi Ngài đã dạy cho chúng con đường lành mà chúng phải đi theo, và giáng mưa xuống trên đất mà Chúa đã ban cho dân Ngài làm sản-nghiệp. 28 Nếu trong xứ có cơn đói-kém, ôn-dịch, đại-hạn, ten-sét, cào-cào, hay là châu-chấu; hoặc kẻ thù-nghịch vây hãm các thành trong địa-phận họ; bất kỳ có tai-vạ gì, tật-bịnh gì; 29 ví bằng có một người, hoặc cả dân Y-sơ-ra-ên của Chúa đã nhận-biết tai-vạ và sự đau-đớn của mình, mà giơ tay ra hướng về nhà nầy, cầu-nguyện và khẩn-xin vô-luận đều gì, 30 thì xin Chúa từ trên trời, là nơi ngự của Chúa, hãy dủ nghe, tha-thứ cho, và báo lại cho mỗi người tùy theo công-việc họ, vì Chúa thông-biết lòng của họ (thật chỉ một mình Chúa biết được lòng của con-cái loài người); 31 để khiến chúng kính-sợ Chúa, đi theo đường lối của Chúa trọn đời chúng sống ở trên đất mà Chúa đã ban cho tổ-phụ chúng tôi.
32 Vả lại, về người ngoại-bang là người chẳng thuộc về dân Y-sơ-ra-ên của Chúa, nhưng vì danh lớn Chúa, vì cánh tay quyền-năng giơ thẳng ra của Ngài, họ sẽ từ xứ xa đi đến hướng về đền nầy mà cầu-nguyện, 33 thì xin Chúa từ trên trời, là nơi ngự của Chúa, hãy dủ nghe, và làm theo mọi đều người ngoại-bang ấy cầu-xin Chúa; hầu cho muôn dân trên đất nhân-biết danh Chúa, kính-sợ Ngài như dân Y-sơ-ra-ên của Chúa, và biết rằng cái đền nầy mà tôi đã xây-cất, được gọi bằng danh Chúa.
34 Khi dân-sự Chúa ra chiến-tranh với kẻ thù-nghịch mình, theo đường nào mà Chúa sẽ sai đi, nếu chúng cầu-nguyện cùng Chúa, xây về hướng thành nầy mà Chúa đã chọn, và về đền nầy mà tôi đã xây-cất cho danh Chúa, 35 thì xin Chúa từ trên trời hãy dủ nghe lời cầu-nguyện nài-xin của chúng, và binh-vực cho họ.
(1 Các vua) 8 46 Khi chúng nó phạm tội cùng Chúa (vì không có người nào chẳng phạm tội), và Chúa nổi giận, phó chúng nó cho kẻ thù-nghịch; khi họ bị bắt làm phu-tù đến xứ của kẻ thù-nghịch, hoặc xa hoặc gần, — 47 ví bằng trong xứ mà họ bị tù, họ nghĩ lại, ăn-năn, và nài-xin Chúa mà rằng: « Chúng tôi có phạm tội, làm đều gian-ác, và cư-xử cách dữ-tợn; » — 48 nhược bằng tại trong xứ mà thù-nghịch đã dẫn họ đến làm phu-tù, họ hết lòng hết ý trở lại cùng Chúa, cầu-nguyện cùng Ngài, mặt hướng về xứ mà Chúa đã ban cho tổ-phụ họ, về thành mà Chúa đã chọn, và về đền mà tôi đã xây-cất cho danh Chúa, — 49 thì xin Chúa ở trên trời, tức nơi Chúa ngự, hãy dủ nghe lời cầu-nguyện nài-xin của họ, và binh-vực quyền-lợi cho họ; 50 tha cho dân Chúa tội-lỗi và các sự trái-mạng mà họ đã phạm cùng Ngài; xin Chúa khiến những kẻ bắt họ làm phu-tù có lòng thương-xót họ, 51 vì dân Y-sơ-ra-ên vốn là dân-sự Chúa, cơ-nghiệp của Chúa, mà Chúa đã đem ra khỏi Ê-díp-tô, tức khỏi giữa lò sắt.
52 Nguyện Chúa đoái-xem kẻ tôi-tớ Chúa và dân Y-sơ-ra-ên của Ngài, dủ nghe lời cầu-nguyện nài-xin của họ, mỗi lần họ kêu-cầu cùng Chúa. 53 Hỡi Chúa Giê-hô-va ôi! Chúa đã phân-cách họ khỏi các dân-tộc trên đất, để họ làm cơ-nghiệp Chúa, y như Chúa đã phán bởi miệng Môi-se, là tôi-tớ Chúa, khi Chúa đem tổ-phụ chúng tôi ra khỏi Ê-díp-tô.
(2 Sử ký) 6 40 Vậy, Đức Chúa Trời tôi ôi! bây giờ cầu-xin Chúa đoái-thương và lắng tai nghe phàm lời nào cầu-nguyện trong nơi nầy. 41 Nầy, Giê-hô-va Đức Chúa Trời ôi! xin hãy chổi dậy, để Chúa và hòm quyền-năng Ngài được vào nơi an-nghỉ Ngài! Lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời! nguyện những thầy tế-lễ Chúa được mặc sự cứu-rỗi, và các thánh-đồ Chúa được mừng-rỡ trong sự nhơn-từ Ngài! 42 Hỡi Giê-hô-va Đức Chúa Trời! xin chớ từ-bỏ kẻ chịu xức dầu của Chúa; khá nhớ lại các sự nhân-từ của Chúa đối với Đa-vít, là kẻ tôi-tớ Ngài.
(1 Các vua) 8 54 Khi Sa-lô-môn đã cầu với Đức Giê-hô-va những lời khẩn-nguyện nài-xin nầy xong, bèn đứng dậy trước bàn-thờ Đức Giê-hô-va, khỏi nơi người đã quì, tay giơ lên trời. 55 Người đứng chúc phước lớn tiếng cho cả hội-chúng Y-sơ-ra-ên, mà rằng:
56 Đáng khen-ngợi Đức Giê-hô-va, là Đấng đã ban sự bình-yên cho dân Y-sơ-ra-ên của Ngài, tùy theo các lời Ngài đã hứa! Về các lời tốt-lành mà Ngài đã cậy miệng Môi-se, kẻ tôi-tớ Ngài, phán ra, chẳng có một lời nào không ứng-nghiệm. 57 Nguyện Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi ở với chúng tôi, như Ngài đã ở cùng tổ-phụ chúng tôi, chớ lìa, chớ bỏ chúng tôi; 58 nguyện Ngài giục lòng chúng tôi hướng về Ngài, hầu chúng tôi đi trong mọi đường-lối Ngài, giữ những điều-răn, luật-pháp, và mạng-lịnh của Ngài đã truyền cho tổ-phụ chúng tôi. 59 Ước gì Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta ngày đêm dủ lòng nhớ đến các lời ta đã nài-xin trước mặt Ngài, hầu cho tùy việc cần ngày nào theo ngày nấy, Đức Giê-hô-va binh-vực quyền-lợi của tôi-tớ Ngài và của dân Y-sơ-ra-ên; 60 hầu cho muôn dân của thế-gian biết rằng Giê-hô-va là Đức Chúa Trời, chớ chẳng có ai khác. 61 Vậy, các ngươi khá lấy lòng trọn-lành đối với Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta, để đi theo luật-lệ Ngài và giữ-gìn điều-răn của Ngài, y như các ngươi đã làm ngày nay.
Các của tế-lễ về sự khánh-thành đền-thờ
(2 Sử ký) 7 1 Khi Sa-lô-môn cầu-nguyện xong, lửa từ trời giáng xuống đốt của-lễ thiêu và các hi-sinh, sự vinh-quang của Đức Giê-hô-va đầy-dẫy trong đền. 2 Những thầy tế-lễ chẳng vào được trong đền của Đức Giê-hô-va, vì sự vinh-quang Đức Giê-hô-va đầy-dẫy đền của Ngài. 3 Hết thảy dân Y-sơ-ra-ên đều thấy lửa và sự vinh-quang của Đức Giê-hô-va giáng xuống đền, bèn sấp mặt xuống đất trên nền lót, thờ-lạy Đức Giê-hô-va và cảm-tạ Ngài, mà rằng: Chúa là nhân-từ, vì sự thương-xót của Ngài còn đến đời đời!
4 Bấy giờ vua và cả dân-sự dâng những của-lễ tại trước mặt Đức Giê-hô-va. 5 Vua Sa-lô-môn dâng hai vạn hai ngàn con bò và mười hai vạn con chiên đực. Rồi vua và cả dân-sự đều làm lễ khánh-thành đền của Đức Chúa Trời. 6 Những thầy tế-lễ hầu-việc theo chức-phận mình; còn người Lê-vi thì cầm nhạc-khí của Đức Giê-hô-va, mà vua Đa-vít đã sắm đặng ngợi-khen Đức Giê-hô-va, khi người cậy chúng đặng ngợi-khen Ngài, bởi vì lòng nhân-từ Chúa còn đến đời đời. Những thầy tế-lễ thổi kèn ở trước mặt chúng, và cả Y-sơ-ra-ên đều đứng. 7 Sa-lô-môn biệt riêng ra thánh chỗ ở chính giữa hành-lang trước đền Đức Giê-hô-va; vì tại đó, người dâng của-lễ thiêu và mỡ về của-lễ thù-ân, bởi cái bàn-thờ đồng mà Sa-lô-môn đã làm, không đựng hết của-lễ thiêu, của-lễ chay, và mỡ được.
8 Trong khi ấy, Sa-lô-môn và cả Y-sơ-ra-ên, đến từ miền về phía Ha-mát cho tới khe Ê-díp-tô, nhóm lại thành một hội rất đông-đảo, đều dự lễ trong bảy ngày. 9 Qua ngày thứ tám, người ta giữ lễ trọng-thể, vì họ dự lễ khánh-thành bàn-thờ trong bảy ngày, và mừng lễ thường trong bảy ngày. 10 Ngày hai mươi ba tháng bảy, người cho dân-sự trở về trại mình, lòng đều vui-vẻ và mừng-rỡ, vì sự nhơn-từ mà Đức Giê-hô-va đã ban cho Đa-vít, cho Sa-lô-môn, và cho Y-sơ-ra-ên, là dân-sự của Ngài.