Ngày 14 tháng Mười

< Lui     Trang Lịch     Tới >

Đọc 1 Sử ký 4:24-43; 5:1-9, 11-17; 6:1-81; 7:1-12; 8:1-40; 7:13-40; 9:1-34

4 24 Con trai của Si-mê-ôn là Nê-mu-ên, Gia-min, Gia-ríp, Xê-ra, Sau-lơ; 25 Sa-lum, con trai của Sau-lơ, Míp-sam, con trai của Sa-lum, và Mích-ma, con trai của Míp-sam. 26 Con trai của Mích-ma là Ham-mu-ên, con trai của Ham-mu-ên là Xa-cu, con trai của Xa-cu là Si-mê-i. 27 Còn Si-mê-i có mười sáu con trai và sáu con gái; song anh em người không đông con; cả họ-hàng chúng sánh với số người Giu-đa thì kém. 28 Chúng ở tại Bê-e-Sê-ba, tại Mô-la-đa, tại Ha-xa-Sua, 29 tại Bi-la, tại Ê-xem, và tại Tô-lát; 30 lại ở tại Bê-tu-ên, Họt-ma, và Xiếc-lác; 31 ở tại Bết-Ma-ca-bốt, Hát-sa-Su-sim, Bết-Bi-rê, và tại Sa-a-ra-im. Ấy là các thành của chúng cho đến đời vua Đa-vít. 32 Chúng cũng có năm hương-thôn, là Ê-tam, A-in, Rim-môn, Tô-ken, và A-san, 33 cùng các thôn-ấp bốn phía của các hương-thôn nầy cho đến Ba-anh. Ấy là chỗ ở và gia-phổ của chúng.

34 Lại, Mê-sô-báp, Giam-léc, Giô-sa, con trai của A-ma-xia; 35 Giô-ên và Giê-hu, là con trai Giô-xơ-bia, cháu Sê-ra-gia, chắt A-si-ên; 36 lại có Ê-li-ô-ê-nai, Gia-cô-ba, Giê-sô-hai-gia, A-sa-gia, A-đi-ên, Giê-si-mi-ên, Bê-na-gia, 37 Xi-xa, con trai của Si-phi, cháu của A-lôn, chắt của Giê-đa-gia, chít của Sim-ri, là con trai của Sê-ma-gia. 38 Những người kể từng tên nầy là trưởng-tộc trong họ mình, tông-tộc chúng thì thêm lên rất nhiều. 39 Chúng sang qua Ghê-đô, đến bên phía đông của trũng, để kiếm đồng-cỏ cho đoàn súc-vật mình. 40 Chúng bèn thấy đồng-cỏ tươi-tốt; còn đất thì rộng-rãi, yên-lặng và bình-an; khi trước dòng-dõi Cham ở đó. 41 Những người đã kể tên trước đây, trong đời Ê-xê-chia, vua nước Giu-đa, kéo đến đánh các trại-quân của chúng, và những người Ma-ô-nít ở đó, tuyệt hết họ, chiếm lấy đất, và ở thay vào cho đến ngày nay; bởi vì tại đó có đồng-cỏ để nuôi bầy súc-vật của họ. 42 Trong dòng Si-mê-ôn có năm trăm người tiến đến núi Sê-i-rơ; các quan cai họ là Phê-la-tia, Nê-a-ria, Rê-pha-gia, và U-xi-ên; ấy là các con trai của Di-si. 43 Chúng đánh người A-ma-léc còn sót lại, rồi ở đó cho đến ngày nay.

Dòng-dõi Ru-bên

5 1 Vả, Ru-bên, con trưởng-nam của Y-sơ-ra-ên, vì làm ô-uế giường của cha mình, nên quyền trưởng-tử đã về các con trai Giô-sép, là con trai Y-sơ-ra-ên; dầu vậy, trong gia-phổ không chép Giô-sép là trưởng-tử; 2 vì Giu-đa trổi hơn anh em mình, và bởi người mà ra vua-chúa; song quyền trưởng-tử thì về Giô-sép. 3 Nầy con trai của Ru-bên, con trưởng-nam của Y-sơ-ra-ên, là Hê-nóc, Pha-lu, Hết-rôn, và Cạt-mi. 4 Con trai của Giô-ên là Sê-ma-gia, con trai của Sê-ma-gia là Gót, con trai của Gót là Si-mê-i, 5 con trai của Si-mê-i là Mi-ca, con trai của Mi-ca là Rê-a-gia, con trai của Rê-a-gia là Ba-anh, 6 con trai của Ba-anh là Bê-ê-ra, bị Tiếc-lát-Phin-nê-se, vua nước A-si-ri, bắt làm phu-tù; người vốn làm trưởng-tộc trong chi-phái Ru-bên. 7 Anh em của Bê-ê-ra theo họ-hàng mình, y như đã chép vào sách gia-phổ là, Giê-i-ên, trưởng-tộc, Xa-cha-ri, 8 Bê-la, con trai của A-xa, cháu của Sê-ma, chắt của Giô-ên; Bê-la ở tại A-rô-e, cho đến Nê-bô và Ba-anh-Mê-ôn; 9 về phía đông người ở vào lối đồng-vắng cho đến sông Ơ-phơ-rát, vì trong xứ Ga-la-át bầy súc-vật chúng có sanh thêm nhiều lắm. 

Dòng-dõi của Gát

11 Con-cháu Gát ở đối-ngang chúng nó trong xứ Ba-san, cho đến Sanh-ca. 12 Giô-ên là trưởng-tộc, Sa-pham làm phó; lại có Gia-nai và Sa-phát ở Ba-san. 13 Anh em tùy theo tông-tộc chúng, là bảy người: Mi-ca-ên, Mê-su-lam, Sê-ba, Giô-rai, Gia-can, Xia và Ê-be. 14 Ấy là các con trai của A-bi-hai, A-bi-hai con trai của Hu-ri, Hu-ri con trai của Gia-rô-a, Gia-rô-a con trai của Ga-la-át, Ga-la-át con trai của Mi-ca-ên, Mi-ca-ên con trai của Giê-si-sai, Giê-si-sai con trai của Giác-đô, Giác-đô con trai của Bu-xơ; 15 A-hi con trai của Áp-đi-ên, Áp-đi-ên con trai của Gu-ni; A-hi làm trưởng-tộc. 16 Chúng ở nơi Ga-la-át, Ba-san, cùng trong các hương-thôn của xứ ấy; lại ở trong cõi Sa-rôn cho đến giới-hạn nó. 17 Những kẻ nầy đã được biên vào sách gia-phổ trong đời vua Giô-tham nước Giu-đa, và trong đời vua Giê-rô-bô-am nước Y-sơ-ra-ên.

Dòng-dõi Lê-vi

6 1 Con trai của Lê-vi là Ghẹt-sôn, Kê-hát, và Mê-ra-ri. 2 Con trai của Kê-hát là Am-ram, Dít-sê-ha, Hếp-rôn, và U-xi-ên. 3 Con trai của Am-ram là A-rôn, Môi-se và Mi-ri-am. Con trai của A-rôn là Na-đáp, A-bi-hu, Ê-lê-a-sa, và Y-tha-ma. 4 Ê-lê-a-sa sanh Phi-nê-a; Phi-nê-a sanh A-bi-sua; 5 A-bi-sua sanh Bu-ki, Bu-ki sanh U-xi; 6 U-xi sanh Xê-ra-hi-gia; Xê-ra-hi-gia sanh Mê-ra-giốt; 7 Mê-ra-giốt sanh A-ma-ria; A-ma-ria sanh A-hi-túp; 8 A-hi-túp sanh Xa-đốc; Xa-đốc sanh A-hi-ma-ách; 9 A-hi-ma-ách sanh A-xa-ria; A-xa-ria sanh Giô-ha-nan; 10 Giô-ha-nan sanh A-xa-ria, là kẻ làm chức tế-lễ trong đền vua Sa-lô-môn đã xây ở thành Giê-ru-sa-lem. 11 A-xa-ria sanh A-ma-ria; A-ma-ria sanh A-hi-túp; 12 A-hi-túp sanh Xa-đốc; Xa-đốc sanh Sa-lum; 13 Sa-lum sanh Hinh-kia; Hinh-kia sanh A-xa-ria; 14 A-xa-ria sanh Sê-ra-gia; Sê-ra-gia sanh Giê-hô-xa-đác; 15 Giê-hô-xa-đác bị bắt làm phu-tù khi Đức Giê-hô-va dùng tay Nê-bu-cát-nết-sa mà bắt dẫn dân Giu-đa và Giê-ru-sa-lem đi.

16 Con trai của Lê-vi là Ghẹt-sôn, Kê-hát, và Mê-ra-ri. 17 Đây là những tên của các con trai Ghẹt-sôn: Líp-ni và Si-mê-i. 18 Con trai của Kê-hát là Am-ram, Dít-sê-ha, Hếp-rôn, và U-xi-ên. 19 Con trai của Mê-ra-ri là Mách-li và Mu-si. Ấy là các họ-hàng nguời Lê-vi theo tông-tộc mình. 20 Con trai của Ghẹt-sôn là Líp-ni; con trai của Líp-ni là Gia-hát; con trai của Gia-hát là Xim-ma; con trai Xim-ma là Giô-a; 21 con trai Giô-a là Y-đô; con trai Y-đô là Xê-ra; con trai Xê-ra là Giê-a-trai. 22 Con trai của Kê-hát là A-mi-na-đáp; con trai của A-mi-na-đáp là Cô-rê; con trai của Cô-rê là Át-si; con trai của Át-si là Ên ca-na; 23 con trai của Ên-ca-na là Ê-bi-a-sáp; con trai của Ê-bi-a-sáp là Át-si; 24 con trai của Át-si là Ta-hát; con trai của Ta-hát là U-ri-ên; con trai của U-ri-ên là U-xi-gia; con trai của U-xi-gia là Sau-lơ. 25 Con trai của Ên-ca-na là A-ma-sai và A-hi-mốt. 26 Con trai của Ên-ca-na là Xô-phai; con trai của Xô-phai là Na-hát; 27 con trai của Na-hát là Ê-li-áp; con trai của Ê-li-áp là Giê-rô-ham; con trai của Giê-rô-ham là Ên-ca-na. 28 Các con trai của Sa-mu-ên là: Con trưởng-nam là Va-sê-ni, con thứ hai A-bi-gia. 29 Con trai của Mê-ra-ri là Mách-li; con trai của Mách-li là Líp-ni; con trai của Líp-ni là Si-mê-i; con trai của Si-mê-i là U-xa; 30 con trai của U-xa là Si-mê-a; con trai của Si-mê-a là Ha-ghi-gia; con trai của Ha-ghi-gia là A-sai-gia.

31 Sau khi hòm giao-ước đã để yên rồi, vua Đa-vít có đặt những kẻ để coi-sóc việc hát-xướng trong đền Đức Giê-hô-va. 32 Chúng hầu-việc trước đền-tạm về việc hát-xướng cho đến khi vua Sa-lô-môn xây xong đền-thờ của Đức Giê-hô-va tại Giê-ru-sa-lem: ai nấy đều theo ban-thứ mình mà làm việc. 33 Đây là những kẻ chầu-chực với con trai mình. Trong con-cháu Kê-hát có Hê-man là kẻ nhã-nhạc, con trai của Giô-ên, Giô-ên con trai của Sa-mu-ên, 34 Sa-mu-ên con trai của Ên-ca-na, Ên-ca-na con trai của Giê-rô-ham, Giê-rô-ham con trai của Ê li-ên, Ê-li-ên con trai của Thô-a, 35 Thô-a con trai của Xu-phơ, Xu-phơ con trai của Ên-ca-na, Ên-ca-na con trai của Ma-hát, Ma-hát con trai của A-ma-sai, 36 A-ma-sai con trai của Ên-ca-na, Ên-ca-na con trai của Giô-ên, Giô-ên con trai của A-xa-ria, A-xa-ria con trai của Xô-phô-ni, 37 Sô-phô-ni con trai của Ta-hát, Ta-hát con trai của Át-si, Át-si con trai của Ê-bi-a-sáp, Ê-bi-a-sáp con trai của Cô-rê, 38 Cô-rê con trai của Dít-sê-ha, Dít-sê-ha con trai của Kê-hát, Kê-hát con trai của Lê-vi, Lê-vi con trai của Y-sơ-ra-ên.

39 A-sáp, anh em của Hê-man, chầu-chực bên hữu người. A-sáp là con trai của Bê-rê-kia, Bê-rê-kia con trai của Si-mê-a, 40 Si-mê-a con trai của Mi-ca-ên, Mi-ca-ên con trai của Ba-sê-gia, Ba-sê-gia con trai của Manh-ki-gia, 41 Manh-ki-gia con trai của Ét-ni, Ét-ni con trai của Xê-ra, Xê-ra con trai của A-đa-gia, 42 A-đa-gia con trai của Ê-than, Ê-than con trai của Xim-ma, Xim-ma con trai của Si-mê-i, 43 Si-mê-i con trai của Gia-hát, Gia-hát con trai của Ghẹt-sôn, Ghẹt-sôn con trai của Lê-vi.

44 Các con-cháu của Mê-ra-ri, anh em của chúng, đều chầu-chực bên tả, là Ê-than con trai của Ki-si, Ki-si con trai của Áp-đi, Áp-đi con trai của Ma-lúc, 45 Ma-lúc con trai của Ha-sa-bia, Ha-sa-bia con trai của A-ma-xia, A-ma-xia con trai của Hinh-kia, 46 Hinh-kia con trai của Am-si, Am-si con trai của Ba-ni, Ba-ni con trai của Sê-me, 47 Sê-me con trai của Mách-li, Mách-li con trai của Mu-si, Mu-si con trai của Mê-ra-ri, Mê-ra-ri con trai của Lê-vi.

48 Các anh em chúng, là những người Lê-vi khác, đều được cắt làm mọi việc trong đền-tạm của Đức Chúa Trời. 49 A-rôn và các con trai người đều dâng của-lễ hoặc trên bàn-thờ về của-lễ thiêu hay là trên bàn-thờ xông hương, làm mọi việc ở nơi chí-thánh, và làm lễ chuộc-tội cho Y-sơ-ra-ên, theo như mọi sự Môi-se, đầy-tớ Đức Chúa Trời, đã truyền-dạy.

Dòng-dõi A-rôn

50 Đây là dòng-dõi của A-rôn: Ê-lê-a-sa con trai của A-rôn, Phi-nê-a con trai của Ê-lê-a-sa, A-bi-sua con trai của Phi-nê-a, 51 Bu-ki con trai của A-bi-sua, U-xi con trai của Bu-ki, Xê-ra-hi-gia con trai của U-xi, 52 Mê-ra-giốt con trai của Xê-ra-hi-gia, A-ma-ria con trai của Mê-ra-giốt, A-hi-túp con trai của A-ma-ria, 53 Xa-đốc con trai của A-hi-túp, A-hi-ma-ách con trai của Xa-đốc.

54 Nầy là nơi ở của con-cháu A-rôn, tùy theo nơi đóng trại mình trong địa-phận chúng. Họ-hàng Kê-hát bắt thăm trước hết. 55 Họ phân-cấp cho chúng thành Hếp-rôn tại xứ Giu-đa và các cõi bốn phía. 56 Song đất-ruộng và hương-thôn của thành đều ban cho Ca-lép, con trai Giê-phu-nê. 57 Lại con-cháu A-rôn được những thành ẩn-náu, là Hếp-rôn, Líp-na, và địa-hạt nó; Gia-tia, Ếch-tê-mô-a, và địa-hạt nó; 58 Hi-lên, và địa-hạt nó; Đê-bia, và địa-hạt nó; 59 A-san, và địa-hạt nó; Bết-Sê-mết, và địa-hạt nó. 60 Bởi từ chi-phái Bên-gia-min họ được Ghê-ba, và địa-hạt nó; A-lê-mết, và địa-hạt nó; A-na-tốt, và địa-hạt nó. Các thành của chúng cọng lại được mười ba cái, tùy theo gia-tộc họ. 61 Con-cháu Kê-hát còn lại bắt thăm mà được mười thành trong nửa chi-phái Ma-na-se. 62 Con-cháu Ghẹt-sôn, tùy theo họ-hàng, đều được mười ba thành bởi trong chi-phái Y-sa-ca, chi-phái A-se, chi-phái Nép-tha-li, và chi-phái Ma-na-se tại đất Ba-san. 63 Con-cháu Mê-ra-ri, tùy theo gia-tộc họ, đều bắt thăm mà được mười hai thành, bởi trong chi-phái Ru-bên, chi-phái Gát và chi-phái Sa-bu-lôn.

64 Dân Y-sơ-ra-ên chia-cấp cho người Lê-vi các thành ấy và địa-hạt nó. 65 Họ bắt thăm mà cho bởi trong chi-phái Giu-đa, chi-phái Si-mê-ôn, và chi-phái Bên-gia-min, những thành đã kể ở trên. 66 Trong người Kê-hát có mấy nhà đã được những thành bởi trong chi-phái Ép-ra-im; 67 chúng được những thành ẩn-náu, là Si-chem với địa-hạt nó, tại trên núi Ép-ra-im, Ghê-xe với địa-hạt nó, 68 Giốc-mê-am vói địa-hạt nó, Bết-Hô-rôn với địa-hạt nó, 69 A-gia-lôn với địa-hạt nó, Gát-Rim-môn với địa-hạt nó; 70 và bởi trong nửa chi-phái Ma-na-se họ được A-ne với địa-hạt nó, Bi-lê-am với địa-hạt nó. Người ta chia-cấp các thành ấy cho những người của dòng Kê-hát còn sót lại.

71 Con-cháu Ghẹt-sôn bởi họ-hàng của nửa chi-phái Ma-na-se, được Gô-lan ở đất Ba-san với địa-hạt nó; Ách-ta-rốt với địa-hạt nó; 72 bởi chi-phái Y-sa-ca, họ được Kê-đe với địa-hạt nó; Đô-bê-rát với địa-hạt nó; 73 Ra-mốt với địa-hạt nó; A-nem với địa-hạt nó, 74 bởi chi-phái A-se, họ được Ma-sanh với địa-hạt nó; Áp-đôn với địa-hạt nó; Hu cô với địa-hạt nó; 75 Rê-hốp với địa-hạt nó; 76 bởi chi-phái Nép-ta-li, họ được Kê-đe trong Ga-li-lê, với địa-hạt nó; Ham-môn với địa-hạt nó; Ki-ri-a-ta-im với địa-hạt nó.

77 Con-cháu Mê-ra-ri còn sót lại bởi chi-phái Sa-bu-lôn được Ri-mô-nô với địa-hạt nó; Tha-bô với địa-hạt nó; 78 còn bên kia sông Giô-đanh về phía đông, đối-ngang Giê-ri-cô, bởi chi-phái Ru-bên, họ được Bết-se trong rừng với địa-hạt nó; Gia-xa với địa-hạt nó; 79 Kê-đê-mốt với địa-hạt nó; Mê-phát với địa-hạt nó; 80 bởi chi-phái Gát, họ được Ra-mốt ở đất Ga-la-át, với địa-hạt nó; Ma-ha-na-im với địa-hạt nó; 81 Hết-bôn với địa-hạt nó; Gia-ê-xe với địa-hạt nó.

Dòng-dõi Y-sa-ca

7 1 Con trai của Y-sa-ca là: Thô-la, Phu-a, Gia-súp, và Sim-rôn, bốn người. 2 Con trai của Thô-la là: U-xi, Rê-pha-gia, Giê-ri-ên, Giác-mai, Díp-sam, và Sa-mu-ên, đều là trưởng trong tông-tộc Thô-la, và làm người anh-hùng, mạnh-dạn trong dòng-dõi họ; về đời Đa-vít, số con-cháu họ được hai vạn hai ngàn sáu trăm người. 3 Con trai của U-xi là Dít-ra-hia; con trai của Dít-ra-hia là Mi-ca-ên, O-ba-đia, Giô-ên, và Di-si-gia, cả cha con năm người, đều là trưởng-tôc 4 với họ có những đạo-binh sẵn ra trận, cứ theo tông-tộc và thế-hệ của chúng, số được ba vạn sáu ngàn quân; bởi vì chúng có nhiều vợ và nhiều con. 5 Lại anh em chúng trong dòng Y-sa-ca, là những người anh-hùng, mạnh-dạn, theo gia-phổ, số được tám vạn bảy ngàn tên.

Dòng-dõi Bên-gia-min

6 Con trai của Bên-gia-min là Bê-la, Bê-ke, và Giê-đi-a-ên, ba người. 7 Con trai của Bê-la là Ét-bôn, U-xi, U-xi-ên, Giê-ri-mốt, và Y-ri, năm người; thảy đều là trưởng-tộc, người mạnh-dạn; số con-cháu họ, theo gia-phổ, được hai vạn hai ngàn ba mươi bốn người. 8 Con trai của Bê-ke là Xê-mi-ra, Giô-ách, Ê-li-ê-se, Ê-li-ô-ê-nai, Ôm-ri, Giê-rê-mốt, A-bi-gia, A-na-tốt, và A-lê-mết. Những kẻ ấy là con trai Bê-ke, 9 họ đều là trưởng-tộc, và người mạnh-dạn; số con-cháu họ, theo gia-phổ của chúng, được hai vạn hai trăm người. 10 Con trai của Giê-đi-a-ên là Binh-han; con trai của Binh-han là Giê-úc, Bên-gia-min, Ê-hút, Kê-na-na, Xê-than, Ta-rê-si, và A-hi-sa-ha. 11 Những kẻ nầy là con trai của Giê-đi-a-ên, đều là trưởng-tộc, vốn người mạnh-dạn; trong con-cháu chúng kẻ được ra trận, số là một vạn bảy ngàn hai trăm người. 12 Lại có Súp-bim và Hốp-bim, con trai của Y-rơ; Hu-sim con trai của A-he.

Dòng-dõi Bên-gia-min

8 1 Bên-gia-min sanh Bê-la, con trưởng-nam, thứ nhì là Ách-bên, thứ ba là Ạc-ra, 2 thứ tư là Nô-ha, và thứ năm là Ra-pha. 3 Con trai của Bê-la là Át-đa, Ghê-ra, A-bi-hút, 4 A-bi-sua, Na-a-man, A-hoa, 5 Ghê-ra, Sê-phu-phan, và Hu-ram. 6 Đây là các con trai của Ê-hút; những người ấy đều làm trưởng-tộc của dân Ghê-ba; dân ấy bị bắt làm phu-tù dẫn đến đất Ma-na-hát; 7 Na-a-man, A-hi-gia, và Ghê-ra, đều bị bắt làm phu-tù, và người sanh ra U-xa và A-hi-hút.

8 Sa-ha-ra-im sanh con ở trong xứ Mô-áp, sau khi để Hu-sim và Ba-ra, hai vợ người. 9 Bởi Hô-đe, vợ người, thì sanh được Giô-báp, Xi-bia, Mê-sa, Manh-cam, 10 Giê-út, Sô-kia, và Mịt-ma. Những người nầy là con trai của người và đều làm trưởng-tộc. 11 Bởi bà Hu-sim, người sanh A-bi-túp và Ên-ba-anh. 12 Con trai của Ên-ba-anh là Ê-be, Mi-sê-am, và Sê-mết; người ấy xây thành Ô-nô, và Lót với các hương-thôn nó; 13 lại sanh Bê-ri-a và Sê-ma; hai người làm trưởng-tộc của dân-cư A-gia-lôn, và đã đuổi dân thành Gát. 14-16 Con trai của Bê-ria là A-hi-ô, Sa-sác, Giê-rê-mốt, Xê-ba-đia, A-rát, Ê-đe, Mi-ca-ên, Dít-pha, và Giô-ha. 17-18 Con trai của Ên-ba-anh là Xê-ba-đia, Mê-su-lam, Hi-ki, Hê-be, Gít-mê-rai, Gít-lia, và Giô-báp. 19-21 Con trai của Si-mê-i là Gia-kim, Xiếc-ri, Xáp-đi, Ê-li-ê-nai, Xi-lê-tai, Ê-li-ên, A-đa-gia, Bê-ra-gia, và Sim-rát. 22-25 Con trai của Sa-sác là Gít-ban, Ê-be, Ê-li-ên, Áp-đôn, Xiéc-ri, Ha-nan, Ha-na-nia, Ê-lam, An-tô-ti-gia, Gíp-đê-gia, và Phê-nu-ên. 26-27 Con trai của Giê-rô-ham là Sam-sê-rai, Sê-ha-ria, A-ta-lia, Gia-rê-sia, Ê-li-gia, và Xiếc-ri. 28 Những kẻ ấy làm trưởng-tộc, đứng đầu trong dòng-dõi của họ, và ở tại thành Giê-ru-sa-lem.

29 Tổ-phụ của Ga-ba-ôn ở tại Ga-ba-ôn; tên vợ người là Ma-a-ca. 30 Con trưởng-nam người là Áp-đôn; lại có sanh Xu-rơ, Kích, Ba-anh, Na-đáp, 31 Ghê-đô, A-hi-ô, và Xê-ke. 32 Mích-lô sanh Si-mê-a; chúng cũng đồng ở cùng anh em mình tại Giê-ru-sa-lem đối mặt nhau. 33 Nê-rơ sanh Kích; Kích sanh Sau-lơ; Sau-lơ sanh Giô-na-than, Manh-ki-sua, A-bi-na-đáp, và Ếch-ba-anh. 34 Con trai của Giô-na-than là Mê-ri-Ba-anh; Mê-ri-Ba-anh sanh Mi-ca. 35 Con trai của Mi-ca là Phi-thôn, Mê-léc, Ta-rê-a, và A-cha. 36 A-cha sanh Giê-hô-a-đa; Giê-hô-a-đa sanh A-lê-mết, Át-ma-vết, và Xim-ri; Xim-ri sanh Một-sa; 37 Một-sa sanh Bi-nê-a; con trai của Bi-nê-a là Ra-pha; Ra-pha sanh Ê-lê-a-sa, Ê-lê-a-sa sanh A-xên. 38 A-xên có sáu con trai, tên là A-ri-kham, Bốc-ru, Ích-ma-ên, Sê-a-ria, Ô-ba-đia, và Ha-nan. Hết thảy những người ấy đều là con trai của A-xên. 39 Con trai Ê-sết, anh em của A-xên, là U-lam, con trưởng-nam, Giê-úc thứ nhì, và thứ ba là Ê-li-phê-lết. 40 Con trai của U-lam đều là anh-hùng, mạnh-dạn, có tài bắn giỏi; chúng có con và cháu rất đông, số là một trăm năm mươi người. Hết thảy người nầy đều là con-cháu của Bên-gia-min.

Dòng-dõi Nép-ta-li, Ma-na-se, Ép-ra-im, và A-se

7 13 Con trai của Nép-ta-li là Gia-si-ên, Gu-ni, Giê-xe, và Sa-lum, đều là con của bà Bi-la. 14 Con trai của Ma-na-se là Ách-ri-ên, mà hầu A-ram của người sanh; nàng cũng sanh Ma-ki, là tổ-phụ của Ga-la-át. 15 Ma-ki cưới em gái của Hốp-bim và Súp-bim, tên là Ma-a-ca mà làm vợ. Tên của con thứ là Xê-lô-phát; Xê-lô-phát sanh ra mấy con gái. 16 Ma-a-ca, vợ của Ma-ki, sanh được một đứa con trai, đặt tên là Phê-rết; tên của người em là Sê-rết. Sê-rết sanh ra U-lam và Ra-kem. 17 Con trai của U-lam là Bê-đan. Ấy là con trai của Ga-la-át, cháu của Ma-ki, chắt của Ma-na-se. 18 Em gái của Ga-la-át, là Ha-mô-lê-kết, sanh Y-sốt, A-bi-ê-xe, và Mác-la. 19 Con trai của Sê-mi-đa là A-hi-an, Sê-kem, Li-khi, và A-ni-am.

20 Con trai của Ép-ra-im là Su-tê-la; con trai của Su-tê-la là Bê-re, con trai của Bê-re là Ta-hát, con trai của Ta-hát là Ê-lê-a-đa, con trai của Ê-lê-a-đa là Ta-hát, 21 con trai của Ta-hát là Xa-bát, con trai của Xa-bát là Su-tê-la, Ê-xe, và Ê-lê-át; chúng nó bị người đất Gát giết, vì có xuống Gát đặng cướp súc-vật của họ. 22 Ép-ra-im, cha chúng nó, để tang lâu ngày, và anh em người đều tới an-ủi người. 23 Đoạn, người ăn-ở cùng vợ mình, nàng có thai, sanh được một đứa trai, đặt tên là Bê-ri-a, vì nhà người đã bị tai-họa. 24 Con gái người là Sê-ê-ra; nàng xây Bết-Hô-rôn trên và dưới, cùng U-xên-Sê-ê-ra. 25 Lại người sanh Rê-pha; Rê-pha sanh Rê-sép và Tê-la; Tê-la sanh Ta-han; 26 Ta-han sanh La-ê-đan; La-ê-đan sanh Am-mi-hút; Am-mi-hút sanh Ê-li-sa-ma; 27 Ê-li-sa-ma sanh Nun; và Nun sanh Giô-suê. 28 Sản-nghiệp và nơi ở của chúng là Bê-tên và các hương-thôn nó; về phía đông là Na-a-ran, và về phía tây là Ghê-xe với các hương-thôn nó; lại có Si-chem và các hương-thôn nó cho đến Ga-xa và các hương-thôn nó. 29 Gần bờ-cõi chi-phái Ma-na-se có Bết-Sê-an và các hương-thôn nó, Ta-nác và các hương-thôn nó, Mê-ghi-đô và các hương-thôn nó, Đô-rơ và các hương-thôn nó. Con-cháu Giô-sép, con trai Y-sơ-ra-ên, đều ở tại những chỗ ấy.

30 Con trai của A-se là Dim-na, Dích-và, Dích-vi, Bê-ri-a và Sê-ra, là em gái chúng nó. 31 Con trai của Bê-ri-a là Hê-be và Manh-ki-ên; Manh-ki-ên là tổ-phụ của Biếc-xa-vít. 32 Hê-be sanh Giáp-phơ-lết, Sô-mê, Hô-tham, và Su-a, là em gái của chúng nó. 33 Con trai của Giát-phơ-lết là Pha-sác, Bim-hanh, và A-vát. Đó là những con trai của Giáp-phơ-lết. 34 Con trai của Sê-me là A-hi, Rô-hê-ga, Hu-ba, và A-ram. 35 Con trai của Hê-lem, anh em Sê-me, là Xô-pha, Dim-na, Sê-lết, và A-manh. 36 Con trai của Xô-pha là Su-a, Hạt-nê-phê, Su-anh, Bê-ri, Dim-ra, 37 Bết-se, Hốt, Sa-ma, Sinh-sa, Dít-ran, và Bê-ê-ra. 38 Con trai của Giê-the là Giê-phu-nê, Phít-ba, và A-ra. 39 Con trai của U-la là A-ra, Ha-ni-ên, và Ri-xi-a. 40 Những kẻ ấy đều là con-cháu của A-se, làm trưởng-tộc, vốn là tinh-binh và mạnh-dạn, đứng đầu các quan-tướng. Các người trong chúng hay chinh-chiến, theo gia-phổ, số được hai vạn sáu ngàn tên.

Dân thành Giê-ru-sa-lem đã bị làm phu-tù lại được trở về

9 1a Ấy vậy, cả dân Y-sơ-ra-ên được biên vào sổ theo các gia-phổ; kìa đã ghi-chép vào sách ký-lược của các vua Y-sơ-ra-ên.

Tiếp theo các gia phả này là bản ghi chép về dân cư Giê-ru-sa-lem, nhưng thời gian cụ thể, trước hay sau thời kỳ lưu đày, không hoàn toàn rõ ràng. Tuy nhiên, nó dường như tương ứng gần nhất với các danh sách tương tự trong các bản ghi của Nê-hê-mi. Nếu vậy, đây là các gia đình đang sống ở Giê-ru-sa-lem vào chính thời điểm mà các lưu trữ quốc gia này đang được biên soạn.

Dân thành Giê-ru-sa-lem đã bị làm phu-tù lại được trở về

9 1b Dân Giu-đa, tại tội-lỗi họ, bị bắt đem qua nước Ba-by-lôn. 2 Sau khi từ Ba-by-lôn trở về, các người ở đầu-tiên trong địa-nghiệp và trong các thành-ấp của chúng, là người Y-sơ-ra-ên, thầy tế-lễ, người Lê-vi, và người Nê-thi-nim.

3 Ở tại thành Giê-ru-sa-lem, có người Giu-đa, người Bên-gia-min, người Ép-ra-im, và người Ma-na-se. 4 Về dòng Phê-rết, là con của Giu-đa, có U-thai, con trai của A-mi-hút, A-mi-hút con trai của Ôm-ri, Ôm-ri con trai của Im-ri, và Im-ri con trai của Ba-ni. 5 Bởi người Si-lô-ni có A-sai-gia con trưởng-nam, và các con trai của người. 6 Bởi con-cháu Xê-rách, có Giê-u-ên và anh em người, là sáu trăm chín mươi người.

7 Về dòng Bên-gia-min, có Sa-lu, con trai của Mê-su-lam; Mê-su-lam, con trai của Hô-đa-via; Hô-đa-via, con trai của A-sê-nu-a; 8 lại có Gíp-nê-gia, con trai của Giê-rô-ham, Ê-la con trai của U-xi; U-xi là con trai của Mi-cơ-ri và Mê-su-lam, con trai của Sê-pha-tia; Sê-pha-tia là con trai của Rê-u-ên; Rê-u-ên con trai của Gíp-nê-gia, 9 và anh em chúng kể theo thế-hệ thì được chín trăm năm mươi sáu người. Những người ấy đều làm trưởng-tộc.

10 Trong những thầy tế-lễ có Giê-đai-gia, Giê-hô-gia-ríp, Gia-kin, 11 và A-xa-ria, con trai của Hinh-kia; Hinh-kia con trai của Mê-su-lam; Mê-su-lam con trai của Xa-đốc; Xa-đốc con trai của Mê-ra-giốt; Mê-ra-giốt, con trai của A-hi-túp, là kẻ cai-quản đền của Đức Chúa Trời; 12 lại có A-đa-gia, con trai của Giê-rô-ham; Giê-rô-ham, con trai của Pha-sua; Pha-sua, con trai của Manh-ki-gia; Manh-ki-gia, con trai của Ma-ê-sai; Ma-ê-sai, con trai của A-đi-ên; A-đi-ên, con trai của Gia-xê-ra; Gia-xê-ra, con trai của Mê-su-lam; Mê-su-lam, con trai của Mê-si-lê-mít; Mê-si-lê-mít, con trai của Y-mê; 13 và anh em của chúng, số là một ngàn bảy trăm sáu mươi người, đều làm trưởng-tộc, có tài hầu-việc trong đền của Đức Chúa Trời.

14 Trong người Lê-vi có Sê-ma-gia, con trai của Ha-súp, cháu của A-ri-kham, chắt của Ha-sa-bia; thảy đều thuộc về dòng Mê-ra-ri; 15 lại có Bác-ba-cát, Hê-re, Ga-la, Ma-tha-nia, đều là con trai của Mi-ca, cháu của Xiếc-ri, chắt của A-sáp; 16 Ô-ba-đia, con trai của Sê-ma-gia, cháu của Ga-la, chắt của Giê-đu-thum; Bê-rê-kia, con trai của A-sa, cháu của Ên-ca-na, là người ở trong làng dân Nê-tô-pha-tít.

17 Những kẻ canh cửa, là Sa-lum, A-cúp, Tanh-môn, A-hi-man, và anh em của chúng; Sa-lum làm đầu. 18 Cho đến bây giờ họ canh cửa đông của vua; còn xưa tổ-tiên họ đều giữ cửa trại người Lê-vi. 19 Sa-lum con trai Cô-rê, cháu của Ê-bi-a-sáp, chắt của Cô-ra, và anh em tông-tộc mình; ấy là dân Cô-rê lo coi-sóc sự phục-dịch, và canh-giữ các cửa đền-tạm; xưa tổ-phụ chúng cai-quản trại của Đức Giê-hô-va, và giữ cửa trại. 20 Xưa Phi-nê-a, con trai Ê-lê-a-sa, làm quan-cai chúng, và Đức Giê-hô-va ở với người. 21 Xa-cha-ri, con trai Mê-sê-lê-mia, là kẻ giữ cửa hội-mạc. 22 Những kẻ nầy đã được lựa-chọn hầu canh giữ các cửa, số được hai trăm mười hai người. Người ta chép gia-phổ họ theo các hương họ; vua Đa-vít và Sa-mu-ên, là đấng tiên-kiến, đã lập mấy người ấy trong chức của họ. 23 Ấy vậy, chúng và con-cháu của chúng, đều theo ban-thứ, mà coi giữ các cửa đền của Đức Giê-hô-va, tức là đền-tạm. 24 Các kẻ giữ cửa đặt ở bốn phía đền về đông, tây, nam, và bắc. 25 Các anh em chúng ở trong các làng mình phải đến từng tuần, theo phiên-thứ, mà giúp-đỡ. 26 Còn bốn người Lê-vi làm trưởng những người canh cửa, hằng giữ chức mình, và coi-sóc các phòng và kho-tàng trong đền của Đức Chúa Trời. 27 Ban đêm chúng ở xung-quanh đền của Đức Chúa Trời canh giữ nó; đến mỗi buổi sáng-sớm chúng lại lo mở cửa ra.

28 Trong bọn chúng cũng có mấy người được chức giữ đồ khí-dụng, vì các đồ ấy đem ra đem vô y theo số. 29 Lại có kẻ khác được cắt coi-sóc đồ-đạc và các khí-dụng tại nơi thánh, cùng lo giữ bột-miến, rượu, dầu, nhũ-hương, và các thuốc-thơm. 30 Có mấy kẻ trong bọn con trai những thầy tế-lễ chế các thứ hương-hoa. 31 Còn Ma-ti-thia, người Lê-vi, con trưởng-nam của Sa-lum, thuộc về dòng Cô-rê, coi-sóc việc làm bánh rán trong chảo. 32 Mấy kẻ trong vòng anh em chúng về dòng Kê-hát, được chức coi về việc làm bánh trần-thiết, hễ đến ngày Sa-bát thì phải sắm cho sẵn.

33 Đây là những người có chức hát-xướng, đều làm trưởng-tộc trong người Lê-vi, vẫn ở trong các phòng của đền, và vì phục-sự ngày và đêm, nên được miễn các công-việc khác. 34 Những người ấy đều làm trưởng-tộc của người Lê-vi, theo đòng-dõi họ, và ở tại thành Giê-ru-sa-lem.

< Lui    Trang Lịch     Tới >