Hồ Sơ Chính Thức của Y-sơ-ra-ên
Đoạn văn này kết thúc mọi ghi chép tiếp theo về cả Ê-xơ-ra lẫn Nê-hê-mi. Có lẽ cả hai đều ở lại Pha-lê-xtin thực hiện trách nhiệm tương ứng của họ cho đến khi qua đời. Trong nhiều dịp Ê-xơ-ra được gọi là thầy thông giáo; Phù hợp với vai trò đó, người ta nghĩ rằng ông là một trong nhiều thầy thông giáo có thể đã biên soạn các sử ký về lịch sử Y-sơ-ra-ên. Đối với một dân tộc có lịch sử đầy biến động, và dân chúng hiện đang tản mác khắp nhiều quốc gia, việc ghi chép sự tồn tại của họ là vô cùng quan trọng. Chắc chắn một người của Đức Chúa Trời như Ê-xơ-ra sẽ đặc biệt quan tâm rằng các thế hệ tương lai được biết về địa vị độc đặc của Y-sơ-ra-ên như một dân tộc được chọn mà qua đó Đức Chúa Trời đã bày tỏ chính Ngài cho cả thế giới.
Một phần quan trọng trong lịch sử của bất kỳ dân tộc nào là việc bảo tồn các lưu trữ quốc gia. Các ghi chép gia phả đặc biệt quan trọng đối với việc phân chia và quyền sở hữu
.tài sản, hôn nhân và thừa kế, quyền làm chức, và đặc quyền hoàng gia. Có lẽ một trong những lý do quan trọng nhất khiến các gia phả sẽ không được đánh giá đầy đủ cho đến khi Đấng Mê-si ra đời. Vào thời điểm đó, một trong nhiều bằng chứng về quyền làm Đấng Mê-si của Ngài sẽ là Ngài thuộc dòng dõi Vua Đa-vít và nhà Giu-đa, đúng như các tiên tri đã báo trước.
Do đó, có thể Ê-xơ-ra dành một phần những năm cuối đời để ghi chép lịch sử Y-sơ-ra-ên, đặc biệt qua các thời đại quân chủ, vương quốc chia rẽ, lưu đày, và thời kỳ đầu phục hồi. Nếu vậy, người ta có thể suy đoán rằng Ê-xơ-ra cũng biên soạn các lưu trữ quốc gia và các danh sách gia phả chính. Mặc dù chúng không tạo nên bài đọc đặc biệt hấp dẫn, tầm quan trọng của chúng đối với dân tộc vào thời điểm này không thể được phóng đại. Xuyên suốt các gia phả này và các ghi chép liên quan khác có nhiều chú thích lịch sử, nhiều trong số đó đã được đưa vào ở những chỗ thích hợp trong ghi chép lịch sử. Một số danh sách gia phả cũng đã được thấy trong các bản ghi Sáng Thế Ký trước đó, nhưng các tên bổ sung thường xuất hiện trong các danh sách hiện tại.
Được bao gồm trong các ghi chép là những điều sau: các gia phả từ A-đam đến Nô-ê đến Áp-ra-ham và Y-sác; các hậu duệ của Ê-sau (người Ê-đôm); và 12 chi tộc xuống từ Gia-cốp (Y-sơ-ra-ên), trừ Đan và Sa-bu-luân. Sự nhấn mạnh đặc biệt được dành cho chi tộc hoàng gia Giu-đa, dòng dõi thầy tế lễ của Lê-vi, và gia phả Bên-gia-min của Vua Sau-lơ.
Sách Gia-phổ
(Từ đoạn 1 đến đoạn 9)
Sách gia-phổ của các tổ-phụ cho đến đời Gia-cốp. — Những con-cháu của Ích-ma-ên và Ê-sau
1 1 A-đam sanh Sết, Sết sanh Ê-nót; 2 Ê-nót sanh Kê-nan, Kê-nan sanh Ma-ha-la-le, Ma-ha-la-le sanh Giê-rệt; 3 Giê-rệt sanh Hê-nóc, Hê-nóc sanh Mê-tu-sê-la, Mê-tu-sê-la sanh Lê-méc; 4 Lê-méc sanh Nô-ê, Nô-ê sanh Sem, Cham và Gia-phết.
5 Con trai Gia-phết là Gô-me, Ma-gốc, Ma-đai, Gia-van, Tu-banh, Mê-siếc, và Ti-ra. 6 Con trai của Gô-me là Ách-kê-na, Đi-phát, và Tô-ga-ma. 7 Con trai của Gia-van là Ê-li-sa, Ta-rê-si, Kít-tim, và Rô-đa-nim.
8 Con trai của Cham là Cúc, Mích-ra-im, Phút, và Ca-na-an. 9 Con trai của Cúc là Sê-ba, Ha-vi-la, Sáp-ta, Ra-ê-ma, và Sáp-tê-ca. Con trai của Ra-ê-ma là Sê-ba, và Đê-đan. 10 Cúc sinh Nim-rốt; người khởi-đầu làm anh-hùng trên mặt đất. 11 Mích-ra-im sinh họ Lu-đim, họ A-na-mim, họ Lê-ha-bim, họ Náp-tu-him, 12 họ Phát-ru-sim, họ Cách-lu-him, bởi đó sanh ra họ Phi-li-tin, và họ Cáp-tô-rim. 13 Ca-na-an sanh ra Si-đôn, là trưởng-nam, và Hếch, 14 cùng họ Giê-bu-sít, họ A-mô-rít, họ Ghi-rê-ga-sít, 15 họ Hê-vít, họ A-rê-kít, họ Si-nít, 16 họ A-va-đít, họ Xê-ma-rít, và họ Ha-ma-tít.
17 Con trai của Sem là Ê-lam, A-su-rơ, A-bác-sát, Lút, A-ram, Út-xơ, Hu-lơ, Ghê-te, và Mê-siếc. 18 A-bác-sát sanh Sê-lách; Sê-lách sanh Hê-be. 19 Hê-be sanh được hai con trai: một con kêu tên là Bê-lét; bởi vì trong đời người đó đất đã chia ra; còn tên của người em là Giốc-tan. 20 Giốc-tan sanh A-mô-đát, Sê-lép, Ha-sa-ma-vết, Giê-rách, 21 Ha-đô-ram, U-xa, Điếc-la, 22 Ê-banh, A-bi-ma-ên, Sê-ba, 23 Ô-phia, Ha-vi-la, và Giô-báp. Hết thảy những người đó đều là con trai của Giốc-tan.
24 Sem sanh A-bác-sát, A-bác-sát sanh Sê-lách, 25 Sê-lách sanh Hê-be, Hê-be sanh Bê-léc, Bê-léc sanh Rê-hu, 26 Rê-hu sanh Sê-rúc, Sê-rúc sanh Na-cô, Na-cô sanh Tha-rê, 27 Tha-rê sanh Áp-ram, cũng gọi là Áp-ra-ham.
28 Con trai của Áp-ra-ham là Y-sác và Ích-ma-ên. 29 Nầy là dòng-dõi của chúng: Con cả của Ích-ma-ên là Nê-ba-giốt; kế đến Kê-đa, Át-bê-ên, Mi-bô-sam, 30 Mích-ma, Đu-ma, Ma-sa, Ha-đát, Thê-ma, 31 Giê-thu, Na-phích, và Kết-ma. Đó là các con trai của Ích-ma-ên.
32 Kê-tu-ra, vợ nhỏ của Áp-ra-ham, sanh các con trai là Xim-ram, Giốc-san, Mê-đan, Ma-đi-an, Dích-bác, và Su-ách. Giốc-san sanh Sê-ba, và Đê-đan. 33 Con trai của Ma-đi-an là Ê-pha, Ê-phe, Ha-nóc, A-bi-đa, và Ên-đa. Những người ấy đều là con-cháu của Kê-tu-ra.
34 Áp-ra-ham sanh ra Y-sác.
Con trai của Y-sác là Ê-sau và Y-sơ-ra-ên.
35 Con trai của Ê-sau là Ê-li-pha, Rê-u-ên, Giê-úc, Gia-lam, và Cô-ra. 36 Con trai của Ê-li-pha là Thê-man, Ô-ma, Xê-phi, Ga-tham, Kê-na, Thim-na, và A-ma-léc. 37 Con trai của Rê-u-ên là Na-hát, Xê-rách, Sam-ma, và Mích-xa.
38 Con trai của Sê-i-rơ là Lô-than, Sô-banh, Xi-bê-ôn, A-na, Đi-sôn, Ét-xe, và Đi-san. 39 Con trai của Lô-than là Hô-ri và Hô-man; còn Thim-na là em gái Lô-than. 40 Con trai của Sô-banh là A-li-an, Ma-na-hát, Ê-banh, Sê-phi, và Ô-nam. Con trai của Xi-bê-ôn là Ai-gia và A-na. 41 Con trai của A-na là Đi-sôn. Con trai của Đi-sôn là Ham-ran, Ếch-ban, Dít-ran, và Kê-ran. 42 Con trai của Ét-xe là Binh-han, Xa-van, và Gia-a-can. Con trai của Đi-san là Út-xơ, và A-ran.
43 Khi trước dân Y-sơ-ra-ên chưa có một vua cai-trị, thì đây là danh các vua trị-vì xứ Ê-đôm: Bê-la, con trai Bê-ô; tên bổn-thành là Đin-ha-ba. 44 Vua Bê-la băng, Giô-báp, con trai Xê-rách, người Bốt-ra, kế-vị. 45 Vua Giô-báp băng, Hu-sam, người xứ Thê-man, kế-vị. 46 Vua Hu-sam băng, Ha-đát, con trai Bê-đát, kế-vị; chính vua nầy đánh được dân Ma-đi-an tại đồng Mô-áp; tên bổn-thành là A-vít. 47 Vua Ha-đát băng, Sam-la, người Ma-rê-ca, kế-vị. 48 Vua Sam-la băng, Sau-lơ, người Rê-hô-bốt ở trên bờ sông, kế-vị. 49 Vua Sau-lơ băng, Ba-anh-Ha-nan, con trai Ạc-bồ, kế-vị. 50 Vua Ba-anh-Ha-nan băng, Ha-đát kế-vị; tên bổn-thành là Pha-i; còn vợ người tên là Mê-hê-ta-bê-ên, con gái của Mát-rết, cháu ngoại Mê-xa-háp. 51 Vua Ha-đát băng.
Các trưởng-tộc xứ Ê-đôm là: trưởng-tộc Thim-na, trưởng-tộc A-li-a, trưởng-tộc Giê-tết, 52 trưởng-tộc Ô-hô-li-ba-ma, trưởng-tộc Ê-la, trưởng-tộc Phi-nôn, 53 trưởng-tộc Kê-na, trưởng-tộc Thê-man, trưởng-tộc Mép-xa, 54 trưởng-tộc Mác-đi-ên, và trưởng-tộc Y-ram. Đó là các trưởng-tộc của Ê-đôm.
Con-cái của Y-sơ-ra-ên và Giu-đa
2 1 Con trai của Y-sơ-ra-ên là Ru-bên, Si-mê-ôn, Lê-vi, Giu-đa, Y-sa-ca, Sa-bu-lôn, 2 Đan, Giô-sép, Bên-gia-min, Nép-ta-li, Gát, và A-se.
3 Con trai của Giu-đa là Ê-rơ, Ô-nan, và Sê-la. Ba người nầy Giu-đa sanh ra bởi con gái Su-a, người Ca-na-an. Ê-rơ, con cả của Giu-đa, làm sự dữ trước mặt Đức Giê-hô-va, nên Ngài giết nó đi. 4 Ta-ma, là dâu của Giu-đa, sanh cho người Phê-rết và Xê-rách. Tổng-cọng các con của Giu-đa được năm người.
5 Con trai của Phê-rết là Hết-rôn và Ha-mun.
6 Con trai của Xê-rách là Xim-ri, Ê-than, Hê-man, Canh-côn, và Đa-ra, cọng là năm người. 7 Con trai của Cạt-mi là A-ca, tức kẻ làm rối-loạn trong Y-sơ-ra-ên, phạm đến vật nghiêm-cấm. 8 Con trai của Ê-than là A-xa-ria.
9 Con trai Hết-rôn sanh ra là Giê-rác-mê-ên, Ram, và Kê-lu-bai.
10 Ram sanh ra A-mi-na-đáp, A-mi-na-đáp sanh Na-ha-sôn, làm quan-trưởng của người Giu-đa. 11 Na-ha-sôn sanh Sanh-ma, 12 Sanh-ma sanh Bô-ô, Bô-ô sanh Ô-bết, Ô-bết sanh Y-sai. 13 Y-sai sanh con đầu lòng là Ê-li-áp, con thứ nhì là A-bi-na-đáp, thứ ba là Si-mê-a, 14 thứ tư là Na-tha-na-ên, thứ năm là Ra-đai, 15 thứ sáu là Ô-xem, thứ bảy là Đa-vít. 16 Còn Xê-ru-gia và A-bi-ga-in là chị em của những người ấy. Xê-ru-gia có ba con là A-bi-sai, Giô-áp, và A-xa-ên. 17 A-bi-ga-in sanh A-ma-sa; cha của A-ma-sa là Giê-the, người Ích-ma-ên.
Dòng-dõi của Ca-lép, Hết-rôn, và Giê-rác-mê-ôn.
18 Ca-lép, con của Hết-rôn, lấy vợ, là A-xu-ba, với Giê-ri-ốt, rồi sanh con là Giê-se, Sô-báp, và Ạt-đôn. 19 A-xu-ba qua đời, thì Ca-lép lấy Ê-phơ-rát; nàng sanh Hu-rơ cho người. 20 Hu-rơ sanh U-ri, U-ri sanh ra Bết-sa-lê-ên. 21 Sau khi ấy, Hết-rôn đã được sáu mươi tuổi, bèn cưới con gái của Ma-ki, là cha của Ga-la-át, mà làm vợ; người nằm cùng nàng, nàng sanh được Sê-gúp. 22 Sê-gúp sanh Giai-rơ, người nầy được hai mươi ba thành trong xứ Ga-la-át. 23 Dân Ghê-su-rơ và dân Sy-ri chiếm lấy những thành Giai-rơ và Kê-nát, luôn với các hương-thôn của địa-hạt nó, cọng là sáu mươi thành. Những người ấy đều là con-cháu Ma-ki, cha Ga-la-át. 24 Sau khi Hết-rôn qua đời tại Ca-lép Ép-ra-tha rồi, thì vợ người là A-bi-gia, sanh cho người A-su-rơ, là cha của Thê-cô-a.
42 Con trai Ca-lép, là em của Giê-rác-mê-ên, là con cả của Mê-sa, tức tổ-phụ của Xíp, và những con trai của Ma-rê-sa, là tổ-phụ của Hếp-rôn. 43 Con trai của Hếp-rôn là Cô-ra, Táp-bua, Rê-kem, và Sê-ma. 44 Sê-ma sanh Ra-cham, là tổ-phụ của Giô-kê-am; còn Rê-kem sanh Sa-mai. 45 Con trai của Sa-mai là Ma-ôn; và Ma-ôn là tổ-phụ của Bết-sua. 46 Ê-pha, là hầu của Ca-lép, sanh Ha-ran, Một-sa, và Ga-xe; Ha-ran sanh Ga-xe. 47 Con trai của Gia-đai là Rê-ghem, Giô-than, Ghê-san, Phê-lết, Ê-pha, và Sa-áp. 48 Hầu của Ca-lép, là Ma-a-ca, sanh Sê-be và Ti-ra-na. 49 Nàng cũng sanh Sa-áp, là tổ-phụ của Mát-ma-na, Sê-va, tổ-phụ của Mác-bê-na, và tổ-phụ của Ghi-bê-a. Con gái Ca-lép là Ạc-sa.
50 Đây là những con-cháu của Ca-lép: Sô-banh, con trai của Hu-rơ, là con trưởng-nam của Ép-ra-ta, và tổ-phụ của Ki-ri-át-Giê-a-rim; 51 Sanh-ma tổ-phụ của Bết-lê-hem; Ha-rép tổ-phụ của Bết-ga-đe.
52 Sô-banh, tổ-phụ của Ki-ri-át-Giê-a-rim có con trai; người sanh Ha-rô-ê và nửa phần dân Mê-nu-hốt. 53 Các dòng của Ki-ri-át-Giê-a-rim là Dít-rít, Phu-tít, Su-ma-tít, và Mích-ra-ít; cũng bởi những dòng ấy mà có dân Xô-ra-tít và dân Ếch-tao-lít. 54 Con-cháu của Sanh-ma là Bết-lê-hem, người Nê-tô-pha-tít, người Ạt-rốt-Bết-Giô-áp, nửa phần dân Ma-na-ha-tít, và người Xô-rít. 55 Lại các họ-hàng của những thầy thông-giáo ở Gia-bết là họ Ti-ra-tít, họ Si-ma-tít, và họ Su-ca-tít. Ấy là dân Kê-nít, sanh ra bởi Ha-mát, tổ-tiên của nhà Rê-cáp.
25 Giê-rác-mê-ên, con trưởng-nam của Hết-rôn, sanh Ram, là con đầu lòng, kế đến Bu-na, Ô-ren, Ô-xem, và A-hi-gia. 26 Giê-rác-mê-ên lại lấy vợ khác, tên là A-ta-ra, mẹ của Ô-nam. 27 Con trai của Ram, con trưởng-nam của Giê-rác-mê-ên, là Ma-ách, Gia-min, và Ê-ke. 28 Con trai của Ô-nam là Sa-mai và Gia-đa. Con trai của Sa-mai, là Na-đáp và A-bi-su. 29 Tên vợ của A-bi-su là A-bi-hai; nàng sanh cho người Ạc-ban và Mô-lít. 30 Con trai của Na-đáp là Sê-le và Áp-ba-im. Nhưng Sê-le qua đời, không có con. 31 Con trai của Áp-ba-im là Di-si. Con trai của Di-si là Sê-san. Con trai của Sê-san là Ạc-lai. 32 Con trai của Gia-đa, em Sa-mai, là Giê-the và Giô-na-than; Giê-the qua đời, không có con. 33 Con trai của Giô-na-than là Phê-lết và Xa-xa. Ấy là con-cháu Giê-rác-mê-ên.
34 Vả, Sê-san không con trai, song có con gái; cũng có một đứa tôi-tớ Ê-díp-tô, tên là Gia-ra. 35 Sê-san gả con gái mình cho nó; nàng sanh Ạt-tai cho người. 36 Ạt-tai sanh Na-than, Na-than sanh Xa-bát, 37 Xa-bát sanh Ép-la, Ép-la sanh Ô-bết, 38 Ô-bết sanh Giê-hu, Giê-hu sanh A-xa-ria, 39 A-xa-ria sanh Hê-lết, Hê-lết sanh Ê-la-xa, 40 Ê-la-xa sanh Sít-mai, Sít-mai sanh Sa-lum, 41 Sa-lum sanh Giê-ca-mia, Giê-ca-mia sanh Ê-li-sa-ma.
Dòng-dõi Giu-đa và Si-mê-ôn
4 1 Con trai của Giu-đa là Phê-rết, Hết-rôn, Cạt-mi, Hu-rơ và Sô-banh.
2 Rê-a-gia, con trai Sô-banh sanh Gia-hát; Gia-hát sanh A-hu-mai và La-hát. Ấy là các họ-hàng của dân Xô-ra-tít.
3 Đây là con-cháu của A-bi-Ê-tam: Gít-rê-ên, Dít-ma và Di-ba; em gái họ là Ha-sê-lê-bô-ni. 4 Lại có Phê-nu-ên, là tổ-phụ của Ghê-đô, và Ê-xe, tổ-phụ của Hu-sa. Ấy là con-cháu của Hu-rơ, con trưởng-nam của Ép-ra-ta, tổ-phụ của Bết-lê-hem.
5 A-su-rơ, tổ-phụ của Thê-cô-a, lấy hai vợ là Hê-lê-a và Na-a-ra. 6 Na-a-ra sanh A-hu-xam, Hê-phe, Thê-mê-ni, và A-hách-tha-ri. 7 Ấy là các con trai của Na-a-ra. Con trai của Hê-lê-a là Xê-rết, Xô-ha, và Ết-nan. 8 Ha-cốt sanh A-núp, Hát-xô-bê-ba, và dòng A-ha-hên, con Ha-rum.
9 Gia-bê được tôn-trọng hơn anh em mình; mẹ người đặt tên là Gia-bê, vì nói rằng: Ta sanh nó trong sự đau-đớn. 10 Gia-bê khấn-nguyện với Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên rằng: Chớ chi Chúa ban phước cho tôi, mở bờ-cõi tôi rộng lớn; nguyện tay Chúa phù-giúp tôi, giữ tôi được khỏi sự dữ, hầu cho tôi chẳng buồn-rầu! Đức Chúa Trời bèn ban cho y như sự người cầu-nguyện.
11 Kê-lúp, anh em của Su-ha, sanh Mê-hia, tổ-phụ của Ê-tôn. 12 Ê-tôn sanh nhà Ra-pha, Pha-sê-a, và Tê-hi-na, tổ-tiên của dân thành Na-hách. Ấy là những người Rê-ca.
13 Con trai của Kê-na là Ốt-ni-ên và Sê-ra-gia. Con trai của Ốt-ni-ên là Ha-thát. 14 Mê-ô-nô-thai sanh Óp-ra; Sê-ra-gia sanh Giô-áp, tổ-phụ của các người ở trũng thợ mộc, vì họ đều là thợ mộc.
15 Các con trai của Ca-lép, cháu của Giê-phu-nê, là Y-ru, Ê-la, và Na-am, cùng những con trai của Ê-la và Kê-na. 16 Con trai của Giê-ha-lê-le là Xíp, Xi-pha, Thi-ria, và A-sa-rên. 17 Con trai của E-xơ-ra là Giê-the, Mê-rết, Ê-phe, và Gia-lôn. Vợ của Mê-rết sanh Mi-ri-am, Sa-mai, và Dít-bác, tổ-phụ của Ếch-tê-mô-a. 18 Vợ người là dân Giu-đa, sanh Giê-rệt, tổ-phụ của Ghê-đô, Hê-be, tổ-phụ của Sô-cô, và Giê-cu-ti-ên, tổ-phụ của Xa-nô-a. Ấy là con-cháu của Bi-thia, con gái của Pha-ra-ôn, mà Mê-rết cưới lấy. 19 Con trai của vợ Hô-đia, chị em Na-ham, là cha của Kê-hi-la, người Gạc-mít, và Ếch-tê-mô-a, người Ma-ca-thít. 20 Con trai của Si-môn là Am-nôn, Ri-na, Bên-Ha-nan, và Ti-lôn. Con trai của Di-si là Xô-hết và Bên-Xô-hết.
21 Con-cháu Sê-la, con trai Giu-đa, là Ê-rơ, tổ-phụ của Lê-ca, La-ê-đa, tổ-phụ của Ma-rê-sa, và các họ-hàng về dòng-dõi Ách-bê-a, là kẻ dệt vải gai mịn; 22 lại có Giô-kim, và những người Cô-xê-ba, Giô-ách, và Sa-ráp, là người cai-trị đất Mô-áp, cùng Gia-su-bi-Lê-chem. Ấy là đều cổ-tích. 23 Những người nầy là thợ gốm, ở tại Nê-ta-im, và Ghê-đê-ra; chúng ở gần vua mà làm công-việc người.
3 10 Con trai Sa-lô-môn là Rô-bô-am, con trai Rô-bô-am là A-bi-gia, con trai A-bi-gia là A-sa, con trai A-sa là Giô-sa-phát, 11 con trai Giô-sa-phát là Giô-ram, con trai Giô-ram là A-cha-xia, con trai A-cha-xia là Giô-ách; 12 con trai Giô-ách là A-ma-xia, con trai A-ma-xia là A-xa-ria, con trai A-xa-ria là Giô-tham, 13 con trai Giô-tham là A-cha, con trai A-cha là Ê-xê-chia, con trai Ê-xê-chia là Ma-na-se, 14 con trai Ma-na-se là A-môn, con trai A-môn là Giô-si-a.
15 Con trai của Giô-si-a: con trưởng-nam là Giô-ha-nan; con thứ nhì là Giê-hô-gia-kim, thứ ba là Sê-đê-kia, thứ tư là Sa-lum. 16 Con trai của Giê-hô-gia-kim là Giê-chô-nia và Sê-đê-kia. 17 Con trai của Giê-chô-nia, tức người bị lưu-đày, là Sa-la-thi-ên, 18 Manh-ki-ram, Phê-đa-gia, Sê-na-xa, Giê-ca-mia, Hô-sa-ma, và Nê-đa-bia. 19 Con trai của Phê-đa-gia là Xô-rô-ba-bên và Si-mê-i. Con trai của Xô-rô-ba-bên là Mê-su-lam và Ha-na-nia; còn Sê-lô-mít là chị em của chúng. 20 Lại có Ha-su-ba, Ô-hên, Bê-rê-kia, Ha-sa-đia, Du-sáp-Hê-sết, cọng là năm người. 21 Con trai của Ha-na-nia là Phê-la-tia và Ê-sai; lại có con-cháu Rê-pha-gia, con-cháu Ạc-nan, con-cháu Ô-ba-đia, và con-cháu Sê-ca-nia. 22 Con trai của Sê-ca-nia là Sê-ma-gia. Những con trai của Sê-ma-gia là Hát-túc, Di-ganh, Ba-ria, Nê-a-ria, và Sa-phát, cọng được sáu người. 23 Con của Nê-a-ria là Ê-li-ô-ê-nai, Ê-xê-chia, và A-ri-kham, cọng được ba người. 24 Con trai của Ê-li-ô-ê-nai là Hô-đa-via, Ê-li-a-síp, Phê-la-gia, A-cúp, Giô-ha-nan, Đê-la-gia, và A-na-ni, cọng được bảy người.