Tái phân bố Dân số
Bây giờ khi bức tường đã được hoàn thành, Nê-hê-mi nhận ra rằng thành phố quá lớn so với số người đang sinh sống ở đó; cần một dân số lớn hơn để bảo vệ và duy trì nó một cách đúng đắn. Do đó Nê-hê-mi đầu tiên xem xét lại hồ sơ của nhóm người lưu đày ban đầu trở về và sau đó đưa ra một kế hoạch trong đó 10% dân số của Giu-đa và Bên-gia-min sẽ được yêu cầu chuyển đến Giê-ru-sa-lem. Hồ sơ bắt đầu với một số chi tiết hành chính.
Cai số dân Y-sơ-ra-ên trở về Giu-đa với Xô-rô-ba-bên
7 1 Khi vách-thành đã xây xong, và tôi đã tra các cánh cửa, lập những người giữ cửa, kẻ ca-hát, và người Lê-vi trong chức việc của họ, 2 thì tôi giao phó việc cai-trị Giê-ru-sa-lem cho Ha-na-ni, em tôi, và cho Ha-na-nia, quan tể-cung; vì là một người trung-tín và kính-sợ Đức Chúa Trời hơn nhiều kẻ khác. 3 Tôi dặn chúng rằng: Chớ mở các cửa Giê-ru-sa-lem trước khi mặt trời nắng-nóng; người ta phải đóng cánh cửa, và gài then lại trong lúc kẻ giữ cửa còn ở tại đó; lại phải đặt người trong dân Giê-ru-sa-lem thay phiên mà canh-giữ, mỗi người đứng canh nơi đối ngang nhà mình. 4 Vả, thành thì rộng-rãi lớn-lao, còn dân-sự ở trong nó lại ít, và nhà mới thì chưa có cất.
5 Đức Chúa Trời tôi có cảm-động lòng tôi chiêu-tập những người tước-vị, các quan-trưởng, và dân-sự, đặng đem chúng vào sổ từng gia-phổ. Tôi có tìm đặng một cuốn bộ gia-phổ của những người đã trở lên lần đầu, và trong đó tôi thấy có ghi rằng: 6 Nầy là các người tỉnh Giu-đa từ nơi làm phu-tù được trở lên, tức những kẻ thuộc trong bọn bị Nê-bu-cát-nết-sa bắt dẫn tù; chúng trở lại Giê-ru-sa-lem và xứ Giu-đa, ai nấy đều về bổn-thành mình; 7 chúng trở về với Xô-rô-ba-bên, Giê-sua, Nê-hê-mi, A-xa-ria, Ra-a-mia, Na-ha-ma-ni, Mạc-đô-chê, Binh-san, Mích-bê-rết, Biết-vai, Nê-hun, và Ba-a-na.
Nầy là số tu-bộ những người nam của dân Y-sơ-ra-ên: 8 Về con-cháu Pha-rốt, hai ngàn một trăm bảy mươi hai người; 9 về con-cháu Sê-pha-tia, ba trăm bảy mươi hai người. 10 Về con-cháu A-ra, sáu trăm năm mươi hai người. 11 Về con-cháu Pha-hát-Mô-áp, con-cháu của Giê-sua và Giô-áp, có hai ngàn tám trăm mười tám người. 12 Về con-cháu Ê-lam, một ngàn hai trăm năm mươi bốn người. 13 Về con-cháu Xát-tu, tám trăm bốn mươi lăm người. 14 Về con-cháu Xác-cai, bảy trăm sáu mươi người. 15 Về con-cháu Bin-nui, sáu trăm bốn mươi tám người. 16 Về con-cháu Bê-bai, sáu trăm hai mươi tám người. 17 Về con-cháu A-gát, hai ngàn ba trăm hai mươi hai người. 18 Về con-cháu A-đô-ni-cam, sáu trăm sáu mươi bảy người. 19 Về con-cháu Biết-vai, hai ngàn sáu mươi bảy người. 20 Về con-cháu A-đin, sáu trăm năm mươi lăm người. 21 Con-cháu A-te, về dòng-dõi Ê-xê-chia, có chín mươi tám người. 22 Về con-cháu Ha-sum, ba trăm hai mươi tám người. 23 Về con-cháu Bết-sai, ba trăm hai mươi bốn người. 24 Về con-cháu Ha-ríp, một trăm mười hai người. 25 Về con-cháu Ga-ba-ôn, chín mươi lăm người. 26 Về những người Bết-lê-hem và Nê-tô-pha, một trăm tám mươi tám người. 27 Về những người A-na-tốt, một trăm hai mươi tám người. 28 Về những người Bết-A-ma-vết, bốn mươi hai người. 29 Về những người Ki-ri-át-Giê-a-rim, người Kê-phi-ra, và người Bê-ê-rốt, bảy trăm bốn mươi ba người. 30 Về những người Ra-ma và Ghê-ba, sáu trăm hai mươi mốt người. 31 Về những người Mích-ma, một trăm hai mươi hai người. 32 Về những người Bê-tên và A-hi, một trăm hai mươi ba người. 33 Về những người Nê-bô khác, năm mươi hai người. 34 Về con-cháu Ê-lam khác, một ngàn hai trăm năm mươi bốn người. 35 Về con-cháu Ha-rim, ba trăm hai mươi người. 36 Về con-cháu Giê-ri-cô, ba trăm bốn mươi lăm người. 37 Về con-cháu của Lô-đơ, của Ha-đít, và của Ô-nô, bảy trăm hai mươi mốt người. 38 Về con-cháu Sê-na, ba ngàn chín trăm ba mươi người.
39 Những thầy tế-lễ: Về con-cháu Giê-đa-gia, nhà Giê-sua, chín trăm bảy mươi ba người. 40 Về con-cháu Y-mê, một ngàn năm mươi hai người. 41 Về con-cháu Pha-su-rơ, một ngàn hai trăm bốn mươi bảy người. 42 Về con-cháu Ha-rim, một ngàn mười bảy người.
43 Người Lê-vi: Con-cháu của Giê-sua và của Cát-mi-ên, về dòng-dõi Hô-đê-va, bảy mươi bốn người.
44 Người ca-hát: Về con-cháu A-sáp, một trăm bốn mươi tám người.
45 Kẻ giữ cửa: Về con-cháu Sa-lum, con-cháu A-te, con-cháu Tanh-môn, con-cháu A-cúp, con-cháu Ha-ti-ta, và con-cháu Sô-bai, một trăm ba mươi tám người.
46 Người Nê-thi-nim: Con-cháu Xi-ha, con-cháu Ha-su-pha, con-cháu Ta-ba-ốt, 47 con-cháu Kê-rốt, con-cháu Sia, con-cháu Pha-đôn, 48 con-cháu Lê-ba-na, con-cháu Ha-ga-ba, con-cháu Sanh-mai, 49 con-cháu Ha-nan, con-cháu Ghi-đên, con-cháu Ga-ha; 50 con-cháu Rê-a-gia, con-cháu Rê-xin, con-cháu Nê-cô-đa, 51 con-cháu Ga-xam, con-cháu U-xa, con-cháu Pha-sê-a, 52 con-cháu Bê-sai, con-cháu Mê-u-nim, con-cháu Nê-phi-sê-sim, 53 con-cháu Bác-búc, con-cháu Ha-cu-pha, con-cháu Ha-rua, 54 con-cháu Bát-lít, con-cháu Mê-hi-đa, con-cháu Hạt-sa, 55 con-cháu Bạt-cô, con-cháu Si-sê-ra, con-cháu Tha-mác, 56 con-cháu Nê-xia, con-cháu Ha-ti-pha.
57 Dòng-dõi các đầy-tớ của Sa-lô-môn: Con-cháu Sô-tai, con-cháu Sô-phê-rết, con-cháu Phê-ri-đa, 58 con-cháu Gia-a-la, con-cháu Đạt-côn, con-cháu Ghi-đên, 59 con-cháu Sê-pha-tia, con-cháu Hát-tinh, con-cháu Phô-kê-rết-Hát-xê-ba-im, con-cháu A-mon.
60 Tổng cộng các người Nê-thi-nim và con-cháu các đầy-tớ của Sa-lô-môn, là ba trăm chín mươi hai người.
61 Nầy là những người ở từ Tên-Mê-la, Tên-Hạt-sa, Kê-rúp, A-đôn, và từ Y-mê mà đi lên; nhưng chúng nó không thể chỉ ra nhà của tổ-phụ mình và gốc-gác của họ, hoặc thuộc về Y-sơ-ra-ên hay chăng: 62 con-cháu Đê-la-gia, con-cháu Tô-bi-gia, và con-cháu Nê-cô-đa, đều sáu trăm bốn mươi hai người. 63 Về những thầy tế-lễ: Con-cháu Ha-ba-gia, con-cháu Ha-cốt, con-cháu Bạt-xi-lai, là người lấy vợ trong vòng con gái của Bạt-xi-lai, người Ga-la-át, và được gọi bằng tên của họ. 64 Các người ấy tìm-kiếm gia-phổ mình, nhưng không thấy, bèn bị trừ ra chức tế-lễ, kể cho là ô-uế. 65 Quan tổng-trấn cấm chúng ăn những vật chí-thánh cho đến chừng có một thầy tế-lễ dấy lên dùng U-rim và Thu-mim mà cầu-hỏi Đức Chúa Trời.
66 Cả hội-chúng hiệp-lại được bốn vạn hai ngàn ba trăm sáu mươi người, 67 không kể những tôi trai tớ gái của dân, số được bảy ngàn ba trăm ba mươi bảy người; cũng có hai trăm bốn mươi lăm kẻ ca-hát, nam và nữ. 68 Chúng có bảy trăm ba mươi sáu con ngựa, hai trăm bốn mươi lăm con la, 69 bốn trăm ba mươi lăm con lạc-đà, và sáu ngàn bảy trăm hai mươi con lừa.
70 Có mấy trưởng-tộc đem của cung-tiến đặng giúp làm công-việc. Quan tổng-trấn dâng cho kho một ngàn đa-riếc vàng, năm mươi cái chậu, và năm trăm ba mươi cái áo thầy tế-lễ. 71 Có mấy trưởng-tộc dâng vào kho tạo-tác hai vạn đa-riếc vàng, và hai ngàn hai trăm min bạc. 72 Còn vật dân-sự khác dâng, được hai vạn đa-riếc vàng, hai ngàn min bạc, và sáu mươi bảy cái áo thầy tế-lễ.
73a Ấy vậy, những thầy tế-lễ, người Lê-vi, kẻ giữ cửa, kẻ ca-hát, mấy người trong dân, và người Nê-thi-nim, cùng cả Y-sơ-ra-ên, đều ở trong các thành của mình.
Cai sổ người Giu-đa ở tại Giê-ru-sa-lem và trong khắp xứ
11 1 Các quan-trưởng của dân-sự đều ở tại Giê-ru-sa-lem: còn dân-sự khác thì bắt thăm để cho một trong mười người của chúng đến ở tại Giê-ru-sa-lem, là thành thánh, và chín người kia thì ở trong các thành khác. 2 Dân-sự chúc phước cho các người nam nào tình-nguyện ở tại Giê-ru-sa-lem.
3 Vả, đây là những quan-trưởng hàng tỉnh ở tại Giê-ru-sa-lem; nhưng trong các thành Giu-đa, ai nấy đều ở trong đất mình tại trong bổn-thành của mình: ấy là dân Y-sơ-ra-ên, những thầy tế-lễ, người Lê-vi, người Nê-thi-nim, và con-cháu của các tôi-tớ Sa-lô-môn.
4 Có mấy người Giu-đa và người Bên-gia-min ở tại Giê-ru-sa-lem. Về người Giu-đa có A-tha-gia, con trai của U-xia, cháu của Xa-cha-ri, chắt của A-ma-ria, chít của Sê-pha-tia; Sê-pha-tia là con trai của Ma-ha-la-lên, thuộc về dòng-dõi Phê-rết; 5 lại có Ma-a-sê-gia, con trai của Ba-rúc, cháu của Côn-Hô-xê, chắt của Ha-xa-gia, chít của A-đa-gia; A-đa-gia là con trai của Giô-gia-ríp, cháu của Xa-cha-ri về dòng-dõi Si-lô-ni. 6 Các con-cháu của Phê-rết ở tại Giê-ru-sa-lem là bốn trăm sáu mươi tám người mạnh-dạn.
7 Về người Bên-gia-min có Sa-lu, con trai của Mê-su-lam, cháu của Giô-ết, chắt của Phê-đa-gia, chít của Cô-la-gia; Cô-la-gia là con trai của Ma-a-sê-gia, cháu của Y-thi-ên, chắt của Ê-sai; 8 và sau người có Gáp-bai, và Sa-lai cùng chín trăm hai mươi tám người. 9 Giô-ên, con trai của Xiếc-ri, làm quan-trưởng của chúng; còn Giu-đa, con trai của Ha-sê-nua, làm phó quản thành.
10 Trong những thầy tế-lễ có Giê-đa-gia, con trai của Giô-gia-ríp, Gia-kin, 11 và Sê-ra-gia, con trai của Hinh-kia, cháu của Mê-su-lam, chắt của Xa-đốc, chít của Mê-ra-giốt; Mê-ra-giốt là con trai của A-hi-túp, là quản-lý đền của Đức Chúa Trời, 12 cùng các anh em họ làm công-việc của đền, là tám trăm hai mươi hai người. Lại có A-đa-gia, con trai của Giê-rô-ham, cháu của Phê-la-lia, chắt của Am-si, chít của Xa-cha-ri; Xa-cha-ri là con trai của Pha-su-rơ, cháu của Manh-ki-gia, 13 cùng các anh em họ, đều là trưởng-tộc, số là hai trăm bốn mươi hai người. Cũng có A-ma-sai, con trai của A-xa-rên, cháu của Ạc-xai, chắt của Mê-si-lê-mốt, chít của Y-mê, 14 và các anh em họ, đều là người mạnh-dạn và can-đảm, số được một trăm hai mươi tám người. Xáp-đi-ên, con trai của Ghê-đô-lim, làm quan-trưởng của chúng.
15 Trong người Lê-vi có Sê-ma-gia, con trai của Ha-súp, cháu của A-ri-kham, chắt của Ha-sa-bia, chít của Bun-ni; 16 trong các trưởng-tộc người Lê-vi có Sa-bê-thai và Giô-xa-bát được cắt coi-sóc công-việc ngoài của đền Đức Chúa Trời; 17 còn Mát-ta-nia, con trai của Mi-chê, cháu của Xáp-đi, chắt của A-sáp, làm đầu về việc hát lời khen-ngợi trong lúc cầu-nguyện, cùng Bác-bu-kia, là người thứ nhì trong anh em mình, và Áp-đa, con trai của Sa-mua, cháu của Ga-la, chắt của Giê-đu-thun. 18 Hết thảy người Lê-vi ở trong thành thánh, được hai trăm tám mươi bốn người.
19 Những kẻ canh-giữ cửa, là A-cúp, Tanh-môn, và các anh em họ, được một trăm bảy mươi hai người.
20 Các người Y-sơ-ra-ên khác, những thầy tế-lễ, và người Lê-vi, đều ở trong các thành của xứ Giu-đa, mỗi người trong cơ-nghiệp mình. 21 Người Nê-thi-nim đều ở tại Ô-phên; Xi-ha và Ghít-ba làm quan-trưởng của người Nê-thi-nim. 22 U-xi, con trai của Ba-ni, cháu của Ha-sa-bia, chắt của Mát-ta-nia, chít của Mi-chê về dòng-dõi A-sáp, là kẻ ca-hát, được đặt cai-trị người Lê-vi tại Giê-ru-sa-lem, lo làm công-việc của đền Đức Chúa Trời. 23 Vì có lịnh vua truyền về việc của chúng, và có một phần lương định cấp cho những kẻ ca-hát, ngày nào cần dùng theo ngày nấy. 24 Phê-tha-hia, con trai của Mê-sê-xa-bê-ên, về dòng Xê-ra, là con của Giu-đa, giúp vua cai-trị mọi việc dân.
25 Còn về các hương-thôn và đồng-ruộng của nó, có mấy người Giu-đa ở tại Ki-ri-át-A-ra-ba, và trong các làng nó, tại Đi-bôn và các làng nó, tại Giê-cáp-xê-ên và các làng nó, 26 tại Giê-sua, Mô-la-đa, Bết-Phê-lê, 27 Hát-sa-Su-anh, Bê-e-Sê-ba và trong các làng nó, 28 tại Xiếc-lạc, Mê-cô-na và trong các làng nó, 29 tại Ên-Rim-môn, Xô-ra, Giạt-mút, 30 tại Xa-nô-a, A-đu-lam và các làng nó; tại trong La-ki và các đồng-ruộng nó, trong A-xê-ca và các làng nó. Vậy, chúng ở từ Bê-e-Sê-ba cho đến trũng Hin-nôm.
31 Người Bên-gia-min cũng ở từ Ghê-ba cho đến Mích-ma, A-gia, Bê-tên và các làng nó; 32 và ở tại A-na-tốt, Nóp, A-na-nia, 33 Hát-so, Ra-ma, Ghi-tha-im, 34 Ha-đít, Sê-bô-im, Nê-ba-lát, 35 Lô-đơ, và Ô-nô, tức là trũng của các thợ.
36 Từ trong các người Lê-vi có mấy ban ở Giu-đa hiệp với Bên-gia-min.
Tại thời điểm ghi chép này, bốn danh sách sau được đưa ra cho mục đích lịch sử.
Cai số thầy tế-lễ và người Lê-vi
12 1 Đây là những thầy tế-lễ và người Lê-vi, theo Xô-rô-ba-bên, con trai của Sa-la-thi-ên, và Giê-sua, mà đi lên: Sê-ra-gia, Giê-rê-mi, E-xơ-ra, 2 A-ma-ria, Ma-lúc, Ha-túc, 3 Sê-ca-nia, Rê-hum, Mê-rê-mốt, 4 Y-đô, Ghi-nê-thôi, A-bi-gia, 5 Mi-gia-min, Ma-a-đia, Binh-ga, 6 Sê-ma-gia, Giô-gia-ríp, Giê-đa-gia, 7 Sa-lu, A-móc, Hinh-kia, và Giê-đa-gia. Đó là quan-trưởng của những thầy tế-lễ và anh em của họ trong đời Giê-sua.
8 Những người Lê-vi là: Giê-sua, Bin-nui, Cát-mi-ên, Sê-rê-bia, Giu-đa, và Mát-ta-nia, là người với anh em mình coi-sóc việc hát khen-ngợi. 9 Lại có Bác-bu-kia, U-ni, cùng các anh em mình; họ thay-đổi phiên nhau trong công-việc mình.
10 Giê-sua sanh Giô-gia-kim; Giô-gia-kim sanh Ê-li-a-síp; Ê-li-a-síp sanh Giô-gia-đa; 11 Giô-gia-đa sanh Giô-na-than, Giô-na-than sanh Gia-đua.
12 Nầy là trưởng-tộc của những thầy tế-lễ, trong đời Giô-gia-kim: về họ Sê-ra-gia, Mê-ra-gia; về họ Giê-rê-mi, Ha-na-nia; 13 về họ E-xơ-ra, Mê-su-lam; về họ A-ma-ria, Giô-ha-nan; 14 về họ Mê-lu-ki, Giô-na-than; 15 về họ Sê-ba-nia, Giô-sép; về họ Ha-rim, Át-na; về họ Mê-ra-giốt, Hên-cai; 16 về họ Y-đô, Xa-cha-ri; về họ Ghi-nê-thôn, Mê-su-lam; 17 về họ A-bi-gia, Xiếc-ri; về họ Min-gia-min và Mô-a-đia, Phinh-tai; 18 về họ Binh-ga, Sa-mua; về họ Sê-ma-gia, Giô-na-than; 19 về họ Giô-gia-ríp, Mát-tê-nai; về họ Giê-đa-gia, U-xi; 20 về họ Sa-lai, Ca-lai; về họ A-móc, Ê-be; 21 về họ Hinh-kia, Ha-sa-bia; về họ Giê-đa-gia, Nê-tha-nê-ên.
22 Về người Lê-vi, các trưởng-tộc của họ đã biên tên vào sổ trong đời của Ê-li-a-síp, Giô-gia-đa, Giô-ha-nan, và Gia-đua; còn những thầy tế-lễ, thì biên tên vào sổ trong đời Đa-ri-út, nước Phe-rơ-sơ.
23 Các trưởng-tộc của người Lê-vi có ghi tên vào sách sử-ký cho đến đời Giô-ha-nan, con trai của Ê-li-a-síp. 24 Các trưởng-tộc của người Lê-vi: Ha-sa-bia, Sê-rê-bia, và Giê-sua, con trai của Cát-mi-ên, và các anh em người đứng đối nhau, từng ban từng thứ, đặng ngợi-khen và cảm-tạ, tùy theo lịnh của Đa-vít, người của Đức Chúa Trời.
25 Mát-ta-nia, Bác-bu-kia, Ô-ba-đia, Mê-su-lam, Tanh-môn và A-cúp, là kẻ canh-giữ cửa, giữ các kho bên cửa thành. 26 Các người nầy ở về đời Giô-gia-kim, con trai của Giê-sua, cháu Giô-xa-đác, về đời Nê-hê-mi, quan tổng-trấn, và về đời E-xơ-ra, làm thầy tế-lễ và văn-sĩ.