Vấn đề Hôn nhân với Dân ngoại
Khi E-xơ-ra đến Pa-lét-tin, ông được thông báo rằng nhiều đàn ông Y-sơ-ra-ên đã kết hôn với vợ ngoại bang, vi phạm luật pháp được ban cho Môi-se. E-xơ-ra rất buồn vì tin tức này bởi ông biết lý do đằng sau quy tắc và sợ hậu quả của sự bất tuân. Việc kết hôn với vợ ngoại bang bị cấm vì nguy cơ rằng những người phụ nữ này sẽ ảnh hưởng đến chồng và con cái của họ thờ cúng các vị thần và thần tượng lạ. Và lịch sử đã chứng minh sự khôn ngoan của quy tắc này. Kết quả thảm khốc đã xảy ra khi quy tắc này bị vi phạm trong thời kỳ lang thang trong hoang mạc, và chính Sa-lô-môn đã sa ngã về mặt tâm linh như một hậu quả của nhiều người vợ ngoại bang. Do đó E-xơ-ra thực hiện các bước ngay lập tức và quyết liệt để khắc phục vấn đề. Những người đàn ông có tội được yêu cầu ly bỏ vợ của họ, điều mà hầu hết trong số họ đã làm sau khi các phiên điều trần đặc biệt được tổ chức để quyết định từng trường hợp cụ thể. Động thái này có lẽ đại diện cho vai trò rộng lớn hơn của E-xơ-ra trong việc mang lại việc giảng dạy luật pháp và thiết lập các tòa án công lý để thực thi nó.
E-xơ-ra buồn-rầu vì cớ dân Y-sơ-ra-ên cưới người ngoại. — Bài cầu-nguyện người
9 1 Sau các việc đó, các quan trưởng đến gần nói với ta rằng: Dân Y-sơ-ra-ên, những thầy tế-lễ, và người Lê-vi chẳng có phân-rẽ với các dân-tộc của xứ nầy; họ bắt-chước theo sự gớm-ghiếc của dân Ca-na-an, dân Hê-tít, dân Phê-rê-sít, dân Giê-bu-sít, dân Am-môn, dân Mô-áp, dân Ê-díp-tô, và dân A-mô-rít. 2 Vì chúng có lấy những con gái họ làm vợ của mình, và làm vợ con trai mình. Dòng-dõi thánh đã pha-lộn như vậy với dân-tộc của các xứ nầy; thật các trưởng và quan-cai vốn là kẻ đầu phạm tội dường ấy.
3 Khi ta nghe các lời ấy, ta bèn xé áo trong và áo tơi mình, nhổ tóc đầu và lông râu, rồi ngồi buồn-bã. 4 Những người vâng kỉnh các lời phán Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đều hiệp lại chung-quanh ta, sợ-hãi về tội trọng của các người đã bị bắt làm phu-tù được về có phạm; còn ta ngồi kinh-hoảng cho đến khi dâng của-lễ buổi chiều.
5 Đến giờ dâng của-lễ buổi chiều, ta đứng dậy khỏi nơi khổ-nhục mình, áo trong và áo tơi ta xé rách; ta quì gối xuống, giơ tay ra hướng về Giê-hô-va Đức Chúa Trời ta, 6 mà thưa với Ngài rằng: Ồ, Đức Chúa Trời tôi! tôi hổ ngươi thẹn mặt, chẳng dám ngước mặt lên Ngài, là Đức Chúa Trời tôi; vì gian-ác chúng tôi đã thêm nhiều quá đầu chúng tôi, và tội chúng tôi cao lớn tận trời. 7 Từ ngày tổ-phụ chúng tôi cho đến ngày nay, chúng tôi đã cực-cùng phạm-tội; vì cớ tội-ác mình, nên chúng tôi, các vua chúng tôi, và những thầy tế-lễ chúng tôi, đều bị phó vào tay các vua những xứ, bị gươm, bị bắt làm phu-tù, bị cướp-giựt, và bị sỉ-nhục, y như đều đó đã có ngày nay. 8 Song bây giờ, Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng tôi tạm làm ơn cho chúng tôi, để một phần dư lại của chúng tôi thoát-khỏi, và ban cho chúng tôi một cái đền ở trong chỗ thánh nầy; hầu cho Đức Chúa Trời chúng tôi soi-sáng con mắt chúng tôi và khiến cho chúng tôi ở giữa sự nô-lệ mình được dấy lên một chút. 9 Vì chúng tôi vốn là kẻ nô-lệ; nhưng Đức Chúa Trời của chúng tôi không từ bỏ chúng tôi trong sự nô-lệ chúng tôi. Ngài đã khiến cho chúng tôi được ơn trước mặt các vua Phe-rơ-sơ, hầu ban cho chúng tôi sự dấy lên đặng cất lại đền của Đức Chúa Trời chúng tôi và xây lên lại những nơi hư-nát của nó, cùng ban cho chúng tôi một nơi ở tại trong xứ Giu-đa và thành Giê-ru-sa-lem. 10 Bây giờ, hỡi Đức Chúa Trời chúng tôi ôi! sau những đều đó, chúng tôi sẽ nói làm sao? Vì chúng tôi đã lìa-bỏ những điều-răn. 11 Ngài đã cậy các tiên-tri, là tôi-tớ Ngài, mà phán dạy chúng tôi, rằng: Xứ mà các ngươi sẽ vào đặng nhận lấy đó, là một xứ bị ô-uế tại sự ô-uế của các dân-tộc nó, và tại sự gớm-ghiếc của chúng nó đã làm cho xứ ấy đầy-dẫy từ đầu nầy chí đầu kia. 12 Vì vậy, cho nên chớ gả con gái các ngươi cho con trai chúng nó, và đừng cưới con gái họ cho con trai của các ngươi; chớ hề tìm-kiếm sự thạnh-lợi hoặc sự bình-an của chúng nó, để các ngươi trở nên mạnh-dạn, ăn hoa-lợi của xứ, và để nó lại cho các con trai mình làm cơ-nghiệp đời đời. 13 Vả, sau những tai-họa đã giáng trên chúng tôi, tại các sự hành-ác và tội trọng của chúng tôi, — mà lại, hỡi Đức Chúa Trời của chúng tôi ôi! thật Chúa chẳng có phạt chúng tôi cho đáng như tội chúng tôi, và đã ban cho chúng tôi được phần sót lại dường nầy; — 14 vậy có lẽ nào chúng tôi lại phạm các điều-răn của Chúa nữa, kết-bạn với các dân-tộc vẫn làm những sự gớm-ghiếc nầy sao? Vậy thì cơn thạnh-nộ Chúa há sẽ chẳng nổi lên cùng chúng tôi, tiêu-diệt chúng tôi, đến đỗi chẳng còn phần sót lại, cũng không ai thoát-khỏi hay sao? 15 Hỡi Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên ôi! Chúa vốn là công-bình; còn chúng tôi, chỉ một số ít người được thoát-khỏi, như đã thấy ngày nay: nầy chúng tôi ở trước mặt Chúa, mắc tội-lỗi nhiều; nhân đó, chẳng ai có thế đứng nổi trước mặt Ngài.
Đuổi các người nữ ngoại-bang
10 1 Trong lúc E-xơ-ra cầu-nguyện như vậy, vừa khóc vừa xưng tội và sấp mình xuống trước đền của Đức Chúa Trời, thì có một đám dân Y-sơ-ra-ên, người nam và nữ rất đông, nhóm-hiệp xung-quanh người; chúng cũng khóc nứt-nở. 2 Sê-ca-nia, con trai Giê-hi-ên, cháu của Ê-lam, bèn nói cùng E-xơ-ra rằng: Chúng ta phạm tội với Đức Chúa Trời chúng ta mà cưới những người nữ ngoại thuộc các dân-tộc của xứ; nhưng dầu đã làm vậy, hãy còn sự hi-vọng cho Y-sơ-ra-ên. 3 Vậy bây giờ, ta hãy lập ước với Đức Chúa Trời chúng ta, đuổi hết thảy những người nữ kia và các con-cái của họ đã sanh ra, y như lời chỉ-giáo của chúa tôi và của các người có lòng kính-sợ điều-răn của Đức Chúa Trời chúng ta; khá làm đều ấy theo luật-pháp. 4 Ông hãy đứng dậy, vì việc nầy can-hệ đến ông, và chúng tôi sẽ giúp-đỡ; khá can-đảm mà làm.
5 E-xơ-ra bèn đứng dậy, khiến những thầy tế-lễ cả, người Lê-vi, và cả Y-sơ-ra-ên thề rằng mình sẽ làm theo lời ấy. Chúng liền thề. 6 Khi E-xơ-ra đã chổi dậy khỏi trước đền Đức Chúa Trời, bèn đi vào phòng của Giô-ha-nan, con trai Ê-li-a-síp; người vào đó không ăn bánh và cũng không uống nước, bởi người lấy làm buồn-thảm vì cớ tội-lỗi của dân đã bị bắt làm phu-tù được trở về. 7 Người ta bèn rao-truyền khắp xứ Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, biểu các dân đã bị bắt làm phu-tù được trở về phải nhóm-hiệp tại Giê-ru-sa-lem. 8 Trong ba ngày, ai không vâng theo lịnh của các quan-trưởng và trưởng-lão mà đến, thì các tài-sản người ấy sẽ bị tịch-phong, và chính người bị truất ra khỏi hội-chúng của dân đã bị bắt làm phu-tù được trở về.
9 Trong ba ngày, các người của Giu-đa và Bên-gia-min đều nhóm lại tại Giê-ru-sa-lem, nhằm ngày hai mươi tháng chín; cả dân-sự đều ngồi tại phố ở đằng trước đền của Đức Chúa Trời, rúng-sợ về việc ấy và về cơn mưa lớn. 10 Đoạn, E-xơ-ra, thầy tế-lễ, đứng dậy, và nói rằng: Các ngươi đã phạm tội, cưới vợ ngoại-bang, và thêm nhiều lên tội-lỗi của Y-sơ-ra-ên. 11 Nhưng bây giờ, khá xưng tội-lỗi mình cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời của tổ-phụ các ngươi, và làm đều đẹp ý Ngài: hãy phân cách khỏi các dân-tọc của xứ và khỏi những người vợ ngoại-bang.
12 Cả hội-chúng bèn đáp lớn tiếng rằng: Phải, đều ông đã nói, chúng tôi phải làm theo; 13 song dân-sự đông; và là nhầm mùa mưa, chúng tôi không có thể nào đứng ngoài; lại đều nầy chẳng phải là việc của một hoặc hai ngày, vì trong việc nầy chúng tôi đã phạm tội nhiều lắm. 14 Vậy, xin các quan-trưởng chúng tôi hãy đứng ở đó đặng biện-lý cho cả hội-chúng; phàm ai trong các thành chúng tôi đã cưới lấy vợ ngoại-bang, phải đến theo kỳ nhứt-định, với các trưởng-lão và quan-xét của bổn-thành, đặng sắp-đặt việc nầy cho đến chừng đã nguôi cơn giận-dữ của Đức Chúa Trời chúng tôi.
15 Chỉ Giô-na-than, con trai của A-sa-ên, và Gia-xi-gia, con trai Tiếc-va, phản-cải lời định nầy; và Mê-su-lam cùng Sáp-bê-tai, người Lê-vi, đều giúp cho họ.
16 Vậy, những người đã bị bắt làm phu-tù được trở về làm theo đều đã nhứt-định. Người ta chọn E-xơ-ra, thầy tế-lễ, và mấy trưởng-tộc, tùy theo tông-tộc mình, hết thảy đều gọi đích danh. Ngày mồng một tháng mười, chúng ngồi xuống đặng tra-xét việc nầy. 17 Đến ngày mồng một tháng giêng, chúng đã tra-xét xong những người có cưới vợ ngoại-bang.
18 Trong dòng thầy tế-lễ cũng có thấy những người đã cưới vợ ngoại-bang. Trong con-cháu Giê-sua, chít của Giô-xa-đác, và trong các anh em người có Ma-a-xê-gia, Ê-li-ê-xe, Gia-ríp, và Ghê-đa-lia. 19 Chúng hứa đuổi vợ mình, và dâng một con chiên đực làm của-lễ chuộc lỗi mình. 20 Trong con-cháu Y-mê có Ha-na-ni và Xê-ba-đia. 21 Trong con-cháu Ha-rim có Ma-a-xê-gia, Ê-li, Sê-ma-gia, Giê-hi-ên, và U-xia. 22 Trong con-cháu Pha-su-rơ có Ê-li-ô-ê-nai, Ma-a-xê-gia, Ích-ma-ên, Na-tha-na-ên, Giô-xa-bát, và Ê-lê-a-sa. 23 Trong người Lê-vi có Giô-xa-bát, Si-mê-i, Kê-la-gia (cũng gọi là Kê-li-ta), Phê-ta-hia, Giu-đa, và Ê-li-ê-xe. 24 Trong các người ca-hát có Ê-li-a-síp; trong những người giữ cửa có Sa-lum, Tê-lem, và U-ri.
25 Trong dân Y-sơ-ra-ên: trong con-cháu Pha-rốt có Ra-mia, Y-xia, Manh-ki-gia, Mi-gia-min, Ê-lê-a-sa, Manh-ki-gia, và Bê-na-gia. 26 Trong con-cháu Ê-lam có Mát-ta-nia, Xa-cha-ri, Giê-hi-ên, Áp-đi, Giê-rê-mốt, và Ê-li. 27 Trong con-cháu Xát-tu có Ê-li-ô-ê-nai, Ê-li-a-síp, Mát-ta-nia, Giê-rê-mốt, Xa-bát, và A-xi-xa. 28 Trong con-cháu Bê-bai có Giô-ha-nan, Ha-na-nia, Xáp-bai, và Át-lai. 29 Trong con-cháu Ba-ni có Mê-su-lam, Ma-lúc, A-đa-gia, Gia-sút, Sê-anh, và Ra-mốt. 30 Trong con-cháu Pha-hát-Mô-áp có Át-na, Kê-lanh, Bê-na-gia, Ma-a-xê-gia, Mát-ta-nia, Bết-sa-lê-ên, Bin-nui, và Ma-na-se. 31 Trong con-cháu Ha-rim có Ê-li-ê-xe, Di-si-gia, Manh-ki-gia, Sê-ma-gia, Si-mê-ôn, 32 Bên-gia-min, Ma-lúc, và Sê-ma-ri-a. 33 Trong con-cháu Ha-sum có Mát-nai, Mát-ta-ta, Xa-bát, Ê-li-phê-lết, Giê-rê-mai, Ma-na-se, và Si-mê-i. 34 Trong con-cháu Ba-ni có Ma-ê-đai, Am-ram, U-ên, 35 Bê-na-gia, Bê-đia, Kê-lu-hu, 36 Va-nia, Mê-rê-mốt, Ê-li-a-síp, 37 Mát-ta-nia, Mát-tê-nai, Gia-a-sai, 38 Ba-ni, Bin-nui, Si-mê-i, 39 Sê-lê-mia, Na-than, A-đa-gia, 40 Mác-nát-bai, Sa-sai, Sa-rai, 41 A-xa-rên, Sê-lê-mia, Sê-ma-ria, 42 Sa-lum, A-ma-ria, và Giô-sép. 43 Trong con-cháu Nê-bô có Giê-i-ên, Ma-ti-thia, Xa-bát, Xê-bi-na, Giát-đai, Giô-ên và Bê-na-gia. 44 Hết thảy người ấy đã cưới vợ ngoại-bang; và cũng có nhiều người trong bọn ấy có vợ đã sanh-đẻ con.