Khải Tượng Đền Thờ Vĩ Đại của Ê-xê-chi-ên
Đã khoảng 12 năm kể từ khi có bất kỳ lời Chúa được ghi lại nào đến với Ê-xê-chi-ên. Trong điều có vẻ như chỉ là sự tiếp tục của khải tượng tương lai trước đó, Ê-xê-chi-ên giờ đây thấy đền thờ vĩ đại. Khải tượng này gợi nhớ ta về nhiều cách (đặc biệt trong sự chú ý đến chi tiết) của hai mô tả trước đó – về đền tạm trong đồng vắng và về đền thờ tráng lệ của Sa-lô-môn tại Giê-ru-sa-lem. Sự tương đồng gợi ý rằng, đối với dân Y-sơ-ra-ên, một trong những đặc điểm quan trọng nhất của sự phục hồi là việc xây dựng lại đền thờ hiện đang bị phá hủy của họ. Lời tiên tri của Ê-xê-chi-ên chắc chắn phải mang lại hy vọng mới cho dân tộc sa sút này, tuy nhiên khải tượng của ông vẽ ra một hình ảnh khác xa hơn thời điểm mà dân tộc sẽ được tái thiết lập và đền thờ sẽ được xây dựng lại. Điều này trở nên rõ ràng khi ta nhận ra rằng đền thờ được xây dựng lại sẽ không có vẻ đẹp vật chất của đền thờ mà nó thay thế, và rằng kích thước của đền thờ vĩ đại được mô tả ở đây có quy mô lớn hơn nhiều so với những gì có thể được xây dựng trong thành Giê-ru-sa-lem sắp được tái thiết.
Cũng có những khác biệt đáng kể được thấy trong việc phụng vụ tôn giáo của đền thờ vĩ đại. Đáng chú ý là thiếu vắng, chẳng hạn, hòm giao ước, chân đèn vàng, bánh trần thiết, và bức màn. Không có lễ tuần và không có Ngày Chuộc tội, ngày thánh nhất trong tất cả các ngày. Cũng không có người Lê-vi phụng sự như họ đã phụng sự dưới Luật pháp Môi-se. Mặc dù vẫn sẽ có các thầy tế lễ, sẽ không có thầy tế lễ thượng phẩm. Thay vào đó, sẽ có một “hoàng tử,” hoặc một dòng dõi các “hoàng tử,” người sẽ dâng các của lễ thay mặt cho dân chúng. Điều mà Ê-xê-chi-ên sắp được chỉ ra là điều gì đó rất khác biệt so với bất cứ điều gì ông hay dân ông đã biết đến thời điểm này.
Như ông đã có lúc ban đầu trong chức vụ mình, Ê-xê-chi-ên một lần nữa được tay Chúa dẫn đến đất Y-sơ-ra-ên. Ở đó ông được chỉ ra một cách biểu tượng đền thờ mới sắp tới, các nghi thức thờ phượng của nó, các lễ kỷ niệm, các thầy tế lễ, luật lệ của nó, và sự phân chia đất đai xung quanh nó.
Sự hiện-thấy về đền-thờ lập lại
(Ê-xê-chi-ên) 40 1 Năm thứ hai mươi lăm sau khi chúng ta bị làm phu-tù, đầu năm, ngày mồng mười trong tháng, tức là mười bốn năm sau khi Giê-ru-sa-lem bị hãm, cũng trong ngày ấy, tay của Đức Giê-hô-va đặt trên ta; và Ngài đem ta vào trong thành ấy. 2 Trong các sự hiện-thấy của Đức Chúa Trời, Ngài đem ta vào đất Y-sơ-ra-ên, và đặt ta trên một hòn núi rất cao, trên núi đó, về phía nam, dường như có sự xây-cất một thành. 3 Khi Ngài đã dắt ta vào đó, ta thấy một người hình-dáng như người bằng đồng. Người ấy cầm trong tay một sợi dây gai và một cái cần để đo, đứng nơi hiên cửa. 4 Người bảo ta rằng: Hỡi con người, hãy lấy mắt xem, lấy tai nghe, và để lòng vào những việc mà ta sẽ tỏ ra cho ngươi; vì ấy là để cho ngươi thấy cả, mà đem ngươi đến đây. Vậy mọi đều ngươi sẽ thấy, khá thuật lại cho nhà Y-sơ-ra-ên biết.
5 Nầy, có một cái tường ngoài bao chung-quanh nhà. Người ấy cầm trong tay một cái cần để đo, dài sáu cu-đê, mỗi cu-đê dài hơn cu-đê thường một gang tay. Người đo bề rộng của tường là một cần, và bề cao là một cần.
6 Kế đó, người đi đến nơi hiên-cửa phía đông, bước lên những cấp, đặng đo ngạch hiên-cửa, bề rộng một cần; ngạch khác cũng rộng một cần. 7 Mỗi phòng dài một cần và rộng một cần. Giữa các phòng, có một khoảng hở năm cu-đê; ngạch của hiên-cửa trong, gần bên nhà ngoài hiên-cửa ấy, rộng một cần. 8 Người đo nhà ngoài của hiên-cửa, về phía trong, cũng một cần. 9 Người đo nhà ngoài của hiên-cửa, có tám cu-đê, và những cột nó hai cu-đê; ấy là nhà ngoài của hiên-cửa về phía trong. 10 Những phòng của hiên-cửa phía đông mỗi bên ba cái, cả ba lớn đồng nhau, và các cột mỗi bên đo bằng nhau. 11 Người đo bề rộng của lỗ hiên-cửa, có mười cu-đê, và bề dài mười ba cu-đê. 12 Trước các phòng mỗi bên có một cái câu-lơn một cu-đê; và mỗi phòng một bề có sáu cu-đê; bề kia cũng sáu cu-đê. 13 Người đo hiên-cửa, từ mái của phòng nầy đến mái của phòng khác là hai mươi lăm cu-đê bề ngang, từ cửa nầy đến cửa kia. 14 Đoạn, người tính các cột là sáu mươi cu-đê, gần các cột ấy có hành-lang bao lấy hiên-cửa. 15 Khoảng hở giữa cửa vào và nhà ngoài của cửa trong là năm mươi cu-đê. 16 Nơi các phòng và những cột nó, nơi phía trong hiên-cửa, cả đến các nhà ngoài, thảy đều có những cửa-sổ chấn-song. Nơi phía trong, cả chung-quanh có những cửa-sổ, và trên các cột có những hình cây kè.
17 Rồi đó, người dẫn ta vào nơi hành-lang ngoài; nầy, tại đó có những phòng, và có nền lót đá chung-quanh hành-lang; trên nền lót đá ấy có ba mươi cái phòng. 18 Nền lót đá ở bốn phía hiên-cửa, và bề dài bằng hiên-cửa ấy là nền lót đá dưới. 19 Người đo bề ngang từ phía trước hiên-cửa dưới cho đến mép hành-lang trong, là một trăm cu-đê, phía đông và phía bắc cũng vậy. 20 Người lại đo bề dài và bề ngang của hiên-cửa phía bắc thuộc về hành-lang ngoài. 21 Những phòng của nó mỗi bên ba cái, các cột và nhà ngoài cũng đồng cỡ với của hiên-cửa thứ nhứt: năm mươi cu-đê bề dài và hai mươi lăm cu-đê bề ngang. 22 Những cửa-sổ, nhà ngoài và hình cây kè của nó cũng đồng cỡ với của hiên-cửa phía đông; có bảy cấp bước lên, cái nhà ngoài ở ngay trước các cấp ấy. 23 Đối với hiên-cửa phía bắc và hiên-cửa phía đông thì có hiên-cửa hành-lang trong. Từ hiên-cửa nầy đến hiên-cửa khác độ một trăm cu-đê.
24 Rồi đó, người dắt ta qua phía nam, nầy, tại đó có hiên-cửa hướng nam; người đo các cột và các nhà ngoài, cũng đồng cỡ nhau. 25 Hiên-cửa ấy có những cửa-sổ giống như những cửa-sổ trước bao-bọc lấy, các nhà ngoài cũng vậy; bề dài của hiên-cửa nầy là năm mươi cu-đê, và bề ngang hai mươi lăm cu-đê. 26 Có bảy cấp bước lên, ngay trước các cấp ấy có một cái nhà ngoài; mỗi phía có những hình cây kè trên các cột. 27 Hành-lang trong có một cái hiên-cửa hướng nam, người ấy đo từ hiên-cửa nầy đến hiên-cửa khác, về phía nam, một trăm cu-đê.
28 Đoạn người đem ta vào hành-lang trong do hiên-cửa phía nam; người đo hiên-cửa phía nam, có đồng một cỡ. 29 Những phòng, những cột, và những nhà ngoài của nó cũng đồng cỡ nhau. Hiên-cửa nầy có những cửa-sổ bao-bọc lấy, các nhà ngoài nó cũng vậy; bề dài nó là năm mươi cu-đê, và bề ngang hai mươi lăm cu-đê. 30 Cả chung-quanh có nhà ngoài, bề dài hai mươi lăm cu-đê, bề ngang năm cu-đê. 31 Các nhà ngoài của hiên-cửa ở về phía hành-lang ngoài; có những hình cây kè ở trên các cột nó, và có tám cấp bước lên.
32 Kế đó, người ấy dắt ta vào hành-lang trong về phía đông; người đo hiên-cửa đó cũng đồng một cỡ. Những phòng, những cột, và nhà ngoài của nó cũng đồng một cỡ, và hiên-cửa nầy có những cửa sổ bao-bọc lấy, các nhà ngoài cũng vậy. 33 Hành lang dài năm mươi cu-đê, rộng hai mươi lăm cu-đê. 34 Các nhà ngoài của hiên-cửa nầy ở về phía hành-lang ngoài; mỗi phía có hình cây kè trên các cột, và có tám cấp bước lên.
35 Đoạn người ấy đem ta vào trong hiên-cửa phía bắc; người đo hiên- cửa, cũng đồng một cỡ, 36 những phòng, những cột, và những nhà ngoài nó cũng vậy; lại có những cửa-sổ khắp chung-quanh. Hiên-cửa nầy bề dài năm mươi cu-đê, rộng hai mươi lăm cu-đê. 37 Những nhà ngoài của nó ở về phía hành-lang ngoài; mỗi phía có những hình cây kè trên các cột, và có tám cấp bước lên. 38 Có một cái phòng mà cửa nó ở gần các cột của hiên-cửa, ấy người ta rửa các của-lễ thiêu ở đó. 39 Trong nhà ngoài của hiên-cửa mỗi phía có hai cái bàn, trên đó người ta giết những con sinh về của-lễ thiêu, về của-lễ chuộc sự mắc lỗi, và về của-lễ chuộc tội. 40 Về phía ngoài, tại chỗ bước lên, hướng về hiên-cửa phía bắc, có hai cái bàn; bên kia, về phía nhà ngoài của hiên-cửa, cũng có hai cái bàn. 41 Như vậy, bốn cái bàn ở bên nầy hiên-cửa, và bốn cái bàn ở bên kia, cọng là tám cái; trên các bàn đó người ta giết những con sinh. 42 Lại có bốn cái bàn bằng đá vuông để dùng về của-lễ thiêu, dài một cu-đê rưỡi, rộng một cu-đê rưỡi, cao một cu-đê. Người ta để trên đó những khí-cụ dùng mà giết con sinh về của-lễ thiêu và các của-lễ khác. 43 Có những móc rộng bằng lòng bàn tay cắm cùng bốn phía tường; thịt tế phải để trên các bàn.
44 Phía ngoài hiên-cửa trong, có những phòng để cho kẻ hát nơi hành-lang trong, kề hiên-cửa phía bắc, ngó về phía nam. Lại một cái phòng nữa ở về phía hiên-cửa đông, ngó về phía bắc. 45 Người ấy bảo ta rằng: Cái phòng ngó qua phía nam là để cho các thầy tế-lễ giữ nhà; 46 cái phòng ngó qua phía bắc để cho các thầy tế-lễ giữ bàn-thờ. Ấy là các con trai của Xa-đốc, tức là trong vòng các con trai Lê-vi, đến gần Đức Giê-hô-va đặng hầu-việc Ngài.
47 Đoạn người đo hành-lang vuông, có một trăm cu-đê bề dài và một trăm cu-đê bề ngang. Bàn-thờ thì ở trước mặt nhà.
48 Kế đó người đem ta vào nhà ngoài của nhà, và người đo các cột ở đó, bên nầy năm cu-đê, bên kia năm cu-đê; bề ngang của hiên-cửa bên nầy ba cu-đê, bên kia ba cu-đê. 49 Nhà ngoài có hai mươi cu-đê bề dài, và mười một cu-đê bề ngang; có những cấp bước lên, kề các cột lại có hai cây trụ, bên này một cây, bên kia một cây.
Tả cảnh trong đền-thờ
41 1 Đoạn người đem ta vào trong đền-thờ, và người đo các cột ở đó. Các cột có sáu cu-đê bề ngang về bên nầy, và sáu cu-đê về bên kia: cũng bằng bề ngang của đền-tạm thuở xưa vậy. 2 Bề ngang của cửa vào là mười cu-đê: năm cu-đê bên nầy, năm cu-đê bên kia. Người đo bề dài: bốn mươi cu-đê; và bề ngang: hai mươi cu-đê. 3 Người vào bên trong, đo các cột chỗ cửa vào: hai cu-đê; bề cao của cửa: sáu cu-đê; bề ngang của cửa: bảy cu-đê. 4 Người đo phía trong-cùng, bề dài hai mươi cu-đê, bề ngang hai mươi cu-đê, và bảo ta rằng: Chính là chỗ rất thánh đây.
5 Rồi người đo tường nhà: sáu cu-đê; bề ngang của những phòng bên hông khắp chung-quanh nhà: bốn cu-đê. 6 Những phòng bên hông có ba tầng, mỗi tầng ba mươi phòng; những phòng ấy giáp với một cái tường xây chung-quanh nhà, khá dựa vào đó mà không gác lên trên tường nhà. 7 Nhà-cầu càng cao càng rộng, vì tường chung-quanh nhà càng cao càng hẹp, cho nên nhà cũng càng cao càng rộng. Người ta đi lên từ tầng dưới đến tầng trên do tầng giữa.
8 Ta thấy cả cái nhà nằm trên một cái nền cao trọn một cần, nghĩa là sáu cu-đê lớn, nền của các phòng bên hông cũng vậy. 9 Bề dày của tường ngoài về các phòng bên hông là năm cu-đê; cái tường ấy lò ra bởi nền của nhà bên hông nhà. 10 Khoảng trống ở giữa các phòng bên hông nhà và các phòng khác rộng là hai mươi cu-đê khắp chung-quanh nhà. 11 Những cửa của các phòng bên hông mở ra nơi đất không: một lối vào ở phía bắc, một lối phía nam; và bề ngang của chỗ đó đều là năm cu-đê. 12 Cái nhà ở về trước khoảng đất biệt riêng, hướng tây, rộng là bảy mươi cu-đê; tường bao quanh nhà ấy dày năm cu-đê, dài chín mươi cu-đê.
13 Đoạn người đo nhà, dài một trăm cu-đê; khoảng đất biệt riêng, nhà, và các tường cũng dài một trăm cu-đê. 14 Bề ngang của mặt nhà, với khoảng đất biệt riêng về phía đông, là một trăm cu-đê. 15 Kế đó, người đo bề dài của cái nhà ở trước mặt khoảng đất biệt riêng trên chỗ đằng sau, và các nhà-cầu của mỗi bên: lại là một trăm cu-đê.
Đền-thờ, về phía trong, các nhà ngoài của hành-lang, 16 các ngạch cửa, các cửa-sổ chấn-song, các nhà-cầu chung-quanh, cùng ba tầng phía trước các ngạch cửa, thảy đều lợp lá mái bằng ván. Từ đất đến các cửa-sổ đều đóng lại 17 trên cửa, bên trong và bên ngoài đền-thờ, khắp tường chung-quanh, bề trong và bề ngoài, đều có đo cả.
18 Người ta đã chạm những chê-ru-bin và những hình cây kè, một hình cây kè ở giữa hai chê-ru-bin; mỗi chê-ru-bin có hai mặt, 19 một mặt người ta xây bên nầy hướng về hình cây kè, một mặt sư-tử tơ xây bên kia hướng về hình cây kè, khắp cả nhà đều chạm như vậy. 20 Từ đất đến trên cửa, có những chê-ru-bin và những cây kè chạm, trên tường đền-thờ cũng vậy. 21 Khuôn cửa của đền-thờ hình vuông, và mặt trước của nơi thánh cũng đồng một hình như hình trước của đền-thờ.
22 Cái bàn-thờ thì bằng gỗ, cao ba cu-đê, dài hai cu-đê. Những góc, mặt, và những cạnh của bàn-thờ đều bằng gỗ. Người ấy bảo ta rằng: Nầy là cái bàn ở trước mặt Đức Giê-hô-va.
23 Đền-thờ và nơi thánh có hai cửa; 24 mỗi cửa có hai cánh khép lại được, cửa nầy hai cánh, cửa kia hai cánh. 25 Có những chê-ru-bin và những cây kè chạm trên cửa đền-thờ, cũng như trên tường. Trên phía trước nhà ngoài, về phía ngoài, có ngạch cửa bằng gỗ. 26 Cũng có những cửa-sổ chấn-song, những hình cây kè ở bên nầy bên kia, nơi bốn phía ngoài, nơi các phòng bên hông đền và nơi ngạch cửa.
Các phòng của hành-lang trong
42 1 Đoạn người dắt ta vào hành-lang ngoài, về phía bắc, và đem ta vào trong cái phòng ở trước mặt khoảng đất biệt riêng, đối với nhà hướng bắc. 2 Trên trước mặt là nơi có cửa vào về phía bắc, những phòng ấy choán bề dài một trăm cu-đê, bề ngang năm mươi cu-đê. 3 Các phòng đối nhau, trên một bề dài hai mươi cu-đê, nơi hành-lang trong, đối với nền lót đá của hành-lang ngoài, tại đó có những nhà-cầu ba tầng. 4 Phía trước các phòng có đường đi rộng mười cu-đê, và phía trong có một con đường rộng một cu-đê; những cửa phòng đều xây về phía bắc. 5 Những phòng trên hẹp hơn những phòng dưới và những phòng giữa, vì các nhà-cầu choán chỗ của những phòng trên. 6 Có ba tầng, song không có cột như cột của hành-lang; cho nên những phòng trên và những phòng giữa hẹp hơn những phòng dưới. 7 Bức tường ngoài đi dọc theo các phòng về hướng hành-lang ngoài, trước mặt các phòng, có năm mươi cu-đê bề dài; 8 vì bề dài của các phòng trong hành-lang ngoài là năm mươi cu-đê, còn về trước mặt đền-thờ thì có một trăm cu-đê. 9 Dưới các phòng ấy, về phía đông, có một cửa vào cho những người từ hành-lang ngoài mà đến.
10 Cũng có những phòng trên bề ngang tường hành-lang, về phía đông, ngay trước mặt khoảng đất biệt riêng và nhà. 11 Có một con đường trước các phòng ấy, cũng như trước các phòng phía bắc; hết thảy các phòng ấy bề dài bề ngang bằng nhau, đường ra lối vào và hình-thế cũng giống nhau. 12 Các cửa phòng phía nam cũng đồng như vậy. Nơi vào con đường, trước mặt tường phía đông đối ngay, có một cái cửa, người ta vào bởi đó. 13 Bấy giờ người bảo ta rằng: Các phòng phía bắc và các phòng phía nam, ngay trước khoảng đất biệt riêng, là những phòng thánh, là nơi các thầy tế-lễ gần Đức Giê-hô-va ăn những vật rất thánh. Các thầy ấy sẽ để đó những vật rất thánh, của-lễ chay, của-lễ chuộc sự mắc lỗi, và của-lễ chuộc tội; vì nơi đó là thánh. 14 Khi các thầy tế-lễ đã vào đó rồi, không cởi tại đó những áo mình mặc mà hầu-việc, thì không được từ nơi thánh ra đặng đi đến nơi hành-lang ngoài nữa, vì những áo ấy là thánh, các thầy ấy phải thay áo khác đặng đến gần nơi dân-sự.
15 Sau khi đã đo phía trong nhà xong rồi, người đem ta ra bởi hiên-cửa phía đông, rồi người đo quanh vòng-tròn. 16 Người dùng cần đo phía đông, có năm trăm cần. 17 Người đo phía bắc bằng cái cần dùng để đo, có năm trăm cần. 18 Người đo phía nam bằng cái cần dùng để đo, có năm trăm cần. 19 Người trở qua phía tây đặng đo, có năm trăm cần. 20 Người đo bốn phía tường bao chung-quanh nhà, bề dài là năm trăm cần, bề rộng là năm trăm. Tường nầy dùng để phân-biệt nơi thánh với nơi tục.
Sự hiện-thấy về vinh-quang Đức Giê-hô-va
43 1 Rồi người dắt ta vào hiên-cửa, tức là hiên-cửa phía đông. 2 Ta thấy vinh-quang của Đức Chúa Trời Y-sơ-ra-ên từ phương đông mà đến. Tiếng Ngài giống như tiếng nước lớn, và đất sáng rực vì vinh-quang Ngài. 3 Sự hiện-thấy mà ta thấy bấy giờ, giống như sự hiện thấy đã hiện ra cho ta khi ta đến đặng hủy-diệt thành nầy. Ấy là những sự hiện-thấy giống như sự hiện-thấy mà ta đã thấy trên bờ sông Kê-ba, và ta sấp mặt xuống. 4 Vinh-quang của Đức Giê-hô-va vào trong nhà do hiên-cửa hướng đông. 5 Thần cất ta lên và đem ta vào nơi hành-lang trong; và, nầy, vinh-quang của Đức Giê-hô-va đầy nhà.
6 Ta nghe có ai nói với ta từ trong nhà; có một người đứng gần bên ta. 7 Người nói cùng ta rằng: Hỡi con người, đây là nơi đặt ngai ta, là nơi để bàn chơn ta, tại đây ta sẽ ở đời đời giữa con-cái Y-sơ-ra-ên. Từ nay về sau, không cứ là nhà Y-sơ-ra-ên, là các vua nó, cũng sẽ không phạm đến danh thánh ta nữa, bởi sự hành-dâm chúng nó, và bởi những xác chết của các vua chúng nó trên các nơi cao; 8 vì chúng nó đã đặt ngạch cửa của nơi thánh mình gần ngạch cửa ta, đặt trụ cửa của mình gần trụ cửa ta, cho đến nỗi giữa ta và chúng nó chỉ có cái tường mà thôi. Ấy vậy chúng nó đã làm ô-uế danh thánh ta bởi những sự gớm-ghiếc mà chúng nó đã phạm; nên ta giận mà tuyệt-diệt chúng nó đi. 9 Bây giờ chúng nó khá bỏ sự hành-dâm mình và những xác chết của vua mình cách xa ta, thì ta sẽ ở giữa chúng nó đời đời.
10 Hỡi con người, khá cho nhà Y-sơ-ra-ên biết nhà này, hầu cho chúng nó xấu-hổ về tội-lỗi mình. Chúng nó khá đo theo kiểu nó. 11 Khi chúng nó hổ-thẹn về mọi đều mình đã làm, người khá giơ hình nhà nầy ra cho chúng nó, là những hình-thế, đường ra, lối vào, hết thảy các hình-trạng, hết thảy những mạng-lịnh nó, hình nó, và hết thảy lệ-luật nó. Hãy viết mà tả ra mọi đều đó trước mặt chúng nó, hầu cho chúng nó giữ lấy cả hình nó và cả lệ-luật nó để làm theo.
12 Nầy là luật của nhà: Cả châu-vi nó ở trên chót núi, là nơi rất thánh. Ấy là luật của nhà như vậy.
13 Nầy là mực-thước của bàn-thờ, bằng cu-đê mà mỗi cu-đê dài hơn cu-đê thường một gang tay. Cái nền cao một cu-đê, và rộng một cu-đê, cái lợi vòng-quanh theo nó cao một gang; đó là cái đế bàn-thờ. 14 Từ cái nền ngang mặt đất cho đến cái khuôn dưới, có hai cu-đê, với cái lợi một cu-đê. Từ khuôn nhỏ cho đến khuôn lớn là bốn cu-đê, với cái lợi một cu-đê. 15 Mặt bàn-thờ có bốn cu-đê, và từ mặt bàn-thờ mọc lên bốn cái sừng. 16 Mặt bàn-thờ có mười hai cu-đê bề dài và mười hai cu-đê bề ngang, sẽ là vuông. 17 Khuôn giữa, hoặc bề dài hoặc bề ngang, bốn phía mỗi phía đều có mười bốn cu-đê; có một cái lợi chung-quanh nửa cu-đê; và một cái nền một cu-đê, những cấp của nó sẽ xây về phía đông.
18 Người nói cùng ta rằng: Hỡi con người, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Nầy là các luật về bàn-thờ, vừa ngày nó đã được xây xong đặng người ta có thể dâng của-lễ thiêu và làm lễ rưới huyết trên đó. 19 Chúa Giê-hô-va phán: Các thầy tế-lễ họ Lê-vi về dòng Xa-đốc, đến gần ta đặng hầu-việc ta, ngươi khá cho họ một con bò đực tơ đặng họ làm lễ chuộc tội. 20 Ngươi khá lấy huyết nó bôi trên bốn sừng bàn-thờ và bốn góc khuôn, và trên lợi vòng theo, đặng làm sạch bàn-thờ và làm lễ chuộc tội cho nó. 21 Ngươi khá đem con bò đực dâng làm lễ chuộc tội mà đốt đi trong nơi định sẵn của nhà, ở ngoài nơi thánh.
22 Ngày thứ hai, ngươi khá dâng một con dê đực không tì-vít vì lễ chuộc tội, vì sự làm sạch bàn-thờ, như đã dùng bò đực mà làm sạch vậy. 23 Khi ngươi đã xong sự làm sạch, thì khá dâng một con bò đực tơ không tì-vít, và một con chiên đực không tì-vít, bắt ra từ trong bầy. 24 Ngươi sẽ đem hai vật đó gần trước mặt Đức Giê-hô-va, các thầy tế-lễ rưới muối lên, và dâng làm của-lễ thiêu cho Đức Giê-hô-va. 25 Thẳng bảy ngày, mỗi ngày ngươi khá sắm một con dê đực, để làm lễ chuộc tội; và sắm một con bò đực tơ, một con chiên đực không tì-vít, bắt ra từ trong bầy. 26 Thẳng bảy ngày, phải làm lễ chuộc tội cho bàn-thờ, phải làm sạch nó, biệt nó riêng ra thánh. 27 Sau những ngày ấy qua rồi, từ ngày thứ tám trở di, khi các thầy tế-lễ sẽ dâng của-lễ thiêu và của-lễ thù-ân của các ngươi trên bàn-thờ ấy, thì ta sẽ nhậm cho, Chúa Giê-hô-va phán vậy.