Ngày 05 tháng Hai

< Lui     Trang Lịch     Tới >

Dân số ký 9:1-12; 1:1-2:34

Một Dân Tộc Dưới Luật Pháp

Khi đền tạm được dựng nên và các thầy tế lễ sẵn sàng phục vụ, dân Y-sơ-ra-ên bước vào một giai đoạn mới trong lịch sử của mình—trở thành một dân tộc sống dưới luật pháp và mối quan hệ giao ước với Đức Chúa Trời. Hầu như mọi khía cạnh trong đời sống hàng ngày của họ đều chịu ảnh hưởng sâu sắc, nếu không muốn nói là bị chi phối trực tiếp, bởi các luật pháp mà Đức Chúa Trời đã ban.

Trong bốn mươi năm tiếp theo, qua Môi-se, Đức Chúa Trời thiết lập một hệ thống luật pháp toàn diện, bao gồm:

  • Các luật về nghĩa vụ tôn giáo và nghi lễ;
  • Các quy định về chế độ ăn uống và vệ sinh;
  • Luật liên quan đến việc dâng hiến và biểu tượng thờ phượng;
  • Luật dân sự, chính trị, quân đội, và hệ thống tòa án;
  • Luật hình sự liên quan đến vi phạm tôn giáo, xã hội, đạo đức;
  • Luật gia đình và quyền sở hữu tài sản.

Phần lớn các điều luật này được chép trong các sách Xuất Ê-díp-tô Ký, Lê-vi Ký, Dân Số Ký, và Phục Truyền Luật Lệ Ký. Một số điều luật được lặp lại hoặc mở rộng để phù hợp với các bối cảnh khác nhau, đặc biệt khi dân Y-sơ-ra-ên chuyển từ đời sống du mục sang định cư lâu dài. Nhằm tránh sự lặp lại không cần thiết và giúp có cái nhìn tổng quan, các điều luật này sẽ được hệ thống hóa trong một bộ tổng luật vào khoảng 40 năm sau.

Sách Lê-vi Ký, tiếp nối từ cuối sách Xuất Ê-díp-tô Ký, tập trung vào các nhiệm vụ tế lễ và trách nhiệm của chi phái Lê-vi. Tuy nhiên, sách này cũng chứa đựng nhiều điều luật khác nhau, vì trọng tâm của nó là kêu gọi dân sự sống thánh khiết, phản ánh lời dạy quan trọng: “…vậy hãy nên thánh, vì Ta là thánh.”

Lễ Vượt Qua Đầu Tiên Sau Khi Rời Ai Cập

Sách Dân Số ghi lại rằng, trong hoang mạc gần núi Sinai, dân Israel đã tổ chức lễ Vượt Qua đầu tiên sau khi rời khỏi Ai Cập. Đây là lễ kỷ niệm sự kiện Vượt Qua thực tế đã diễn ra một năm trước tại Ai Cập. Khoảnh khắc này có thể mang đến nhiều cảm xúc đan xen—niềm vui vì được giải phóng khỏi cảnh nô lệ và sự phấn khởi khi trở thành một dân tộc độc lập, nhưng cũng đầy nỗi lo lắng về tương lai chưa biết phía trước.

Lễ kỷ niệm này là minh chứng cho thấy dân Israel đã bắt đầu quan tâm đến việc tuân giữ luật pháp của Đức Chúa Trời và tìm cách áp dụng những luật này trong những hoàn cảnh đặc biệt. Qua đó, họ học được rằng, dù các luật pháp của Đức Chúa Trời mang tính nghiêm khắc, Ngài vẫn dành những biện pháp ân điển để giúp họ tuân giữ đúng đắn.

Giữ lễ Vượt-qua tại đồng vắng Si-na-i

  1 Tháng giêng năm thứ hai, sau khi ra khỏi xứ Ê-díp-tô (khoảng năm 1445 trước Công nguyên), Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se trong đồng vắng Si-na-i rằng: 2 Dân Y-sơ-ra-ên phải giữ lễ Vượt-qua theo kỳ nhứt định. 3 Các ngươi phải giữ lễ đó theo kỳ nhứt-định, tức là ngày mười bốn tháng nầy, vào buổi chiều tối; các ngươi phải làm theo hết thảy lệ-định và luật-pháp về lễ đó.

4 Vậy, Môi-se nói cùng dân Y-sơ-ra-ên để họ giữ lễ Vượt-qua. 5 Dân Y-sơ-ra-ên giữ lễ Vượt-qua trong tuần tháng giêng, ngày mười bốn, vào buổi chiều-tối, tại đồng vắng Si-na-i, làm y mọi đều Đức Giê-hô-va đã phán dặn Môi-se.

6 Vả, có mấy người vì cớ xác chết mà bị ô-uế, không được giữ lễ Vượt-qua trong ngày đó, bèn đến trước mặt Môi-se và A-rôn, 7 mà thưa cùng Môi-se rằng: Chúng tôi bị lây ô-uế vì xác chết của loài người; sao tại trong dân Y-sơ-ra-ên chúng tôi phải bị cất phần dâng của-lễ cho Đức Giê-hô-va theo kỳ đã chỉ? 8 Môi-se đáp rằng: Hãy đợi để ta biết đều Đức Giê-hô-va sẽ truyền dạy về các ngươi.

9 Đức Giê-hô-va bèn phán cùng Môi-se rằng: 10 Hãy nói cùng dân Y-sơ-ra-ên rằng: Khi một người trong vòng các ngươi hay là trong vòng hậu-đại các ngươi bị ô-uế vì cớ xác chết, hoặc mắc đi xa, thì cũng buộc phải giữ lễ Vượt-qua cho Đức Giê-hô-va. 11 Mấy người đó phải giữ lễ nầy ngày mười bốn tháng hai, vào buổi chiều-tối, ăn bánh không men cùng rau đắng, 12 chớ nên để chi còn dư lại đến sáng mai, và cũng chẳng nên bẻ gãy những xương; phải giữ theo mọi luật-lệ về lễ Vượt-qua vậy. 

Việc Kiểm Kê Dân Y-sơ-ra-ên

Một tháng sau khi đền tạm được dựng lên, chức tế lễ được thiết lập, và những luật đầu tiên của Môi-se được ban hành, dân Y-sơ-ra-ên bắt đầu một giai đoạn mới trong lịch sử của mình. Đây là thời điểm họ được định hình như một dân tộc sẵn sàng thực hiện lời hứa cổ xưa mà Đức Chúa Trời đã lập với Áp-ra-ham—việc chiếm lấy đất Ca-na-an, vùng đất đã hứa.

Đức Chúa Trời không bao giờ nói rằng vùng đất này sẽ được trao mà không cần chiến đấu. Trái lại, Ngài đã báo trước rằng dân Y-sơ-ra-ên sẽ phải chiến đấu để chiếm lấy đất đai. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời hứa sẽ đồng hành và ban cho họ sự chiến thắng, miễn là họ giữ vững đức tin nơi Ngài và vâng phục luật pháp của Ngài. Để chuẩn bị cho sứ mệnh này, Đức Chúa Trời ra lệnh kiểm kê dân số, cụ thể là những người trong độ tuổi chiến đấu từ 20 tuổi trở lên.

Cuộc kiểm kê này không chỉ đơn thuần là việc thống kê dân số hay tuyển quân. Đây là một sự đăng ký quốc gia có ý nghĩa quan trọng, vì từ đây người Do Thái trong các thế hệ sau có thể truy nguyên tổ tiên của mình. Một điểm thú vị là con cháu của Giô-sép được tính thành hai chi phái riêng biệt thông qua hai người con trai của ông là Ép-ra-im và Ma-na-se, như lời hứa của Gia-cốp. Trong một dân tộc có dân số khoảng hai triệu người, có 603.550 nam giới được xác định là đủ tuổi chiến đấu. Ngoài việc kiểm kê, các chi phái cũng được phân khu vực đóng trại và ấn định thứ tự di chuyển.

Đáng chú ý, chi phái Lê-vi không nằm trong danh sách kiểm kê những người đủ tuổi chiến đấu. Điều này phản ánh vai trò đặc biệt của họ. Dân tộc Y-sơ-ra-ên chỉ có thể mạnh mẽ trong chiến trận nếu họ trung tín trong việc phụng sự Đức Chúa Trời. Vì vậy, chi phái Lê-vi được giao trách nhiệm duy trì đời sống thuộc linh của dân sự.

Việc kiểm kê người Lê-vi được thực hiện riêng biệt, dựa trên hai tiêu chí khác nhau. Lần đầu tiên, họ kiểm kê tất cả nam giới từ một tháng tuổi trở lên, tổng cộng là 22.000 người. Lần thứ hai, họ thống kê những người từ 30 đến 50 tuổi, tức là những người sẵn sàng phục vụ trong đền tạm, với tổng số là 8.580 người. Các địa điểm đóng trại của họ cùng với những vật dụng mà từng gia đình phải mang vác cũng được chỉ định rõ ràng.

Cuộc kiểm kê này không chỉ giúp dân Y-sơ-ra-ên tổ chức một cách chiến lược mà còn nhấn mạnh rằng sức mạnh thật sự của họ nằm trong sự đồng hành và sự chỉ dẫn của Đức Chúa Trời.

Sự sửa-soạn đi ra từ núi Si-na-i
(Từ đoạn 1 : 1 đến đoạn 10 : 10)

Tu-bộ dân Y-sơ-ra-ên

1   1 Ngày mồng một tháng hai, năm thứ hai, sau khi dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ê-díp-tô, Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se ở trong hội-mạc, tại đồng vắng Si-na-i, mà rằng: 2 Hãy dựng sổ cả hội dân Y-sơ-ra-ên, theo họ-hàng và tông-tộc của họ, cứ đếm từng tên của hết thảy nam-đinh, 3 từ hai mươi tuổi sắp lên, tức là mọi người trong Y-sơ-ra-ên đi ra trận được; ngươi và A-rôn sẽ kê sổ chúng nó tùy theo đội-ngũ của họ. 4 Trong mỗi chi-phái phải có một người giúp-đỡ các ngươi, tức là người làm tộc-trưởng của chi-phái mình.

5 Đây là tên những người sẽ giúp-đỡ các ngươi: Về chi-phái Ru-bên, Ê-lít-su, con trai của Sê-đêu; 6 về chi-phái Si-mê-ôn, Sê-lu-mi-ên, con trai của Xu-ri-ha-đai; 7 về chi-phái Giu-đa, Na-ha-sôn, con trai của A-mi-na-đáp; 8 về chi-phái Y-sa-ca, Na-tha-na-ên, con trai của Xu-a; 9 về chi-phái Sa-bu-lôn, Ê-li-áp, con trai của Hê-lôn; 10 về con cháu Giô-sép, nghĩa là về chi-phái Ép-ra-im, Ê-li-sa-ma, con trai của A-mi-hút; về chi-phái Ma-na-se, Ga-ma-li-ên, con trai của Phê-đát-su; 11 về chi-phái Bên-gia-min, A-bi-đan, con trai của Ghi-đeo-ni; 12 về chi-phái Đan, A-hi-ê-xe, con trai của A-mi-sa-đai; 13 về chi-phái A-se, Pha-ghi-ên, con trai của Óc-ran; 14 về chi-phái Gát, Ê-li-a-sáp, con trai của Đê-u-ên; 15 về chi-phái Nép-ta-li, A-hi-ra, con trai của Ê-nan. 16 Đó là những người được gọi từ trong hội-chúng, vốn là quan-trưởng của các chi-phái tổ-phụ mình, và là quan-tướng quân-đội Y-sơ-ra-ên.

17 Vậy, Môi-se và A-rôn nhận lấy các người ấy mà đã được xướng tên; 18 đến ngày mồng một tháng hai, truyền nhóm cả hội-chúng, cứ kể tên từng người từ hai mươi tuổi sắp lên mà nhập sổ theo họ-hàng và tông-tộc của họ. 19 Vậy, Môi-se kê sổ chúng nó tại đồng vắng Si-na-i, y như Đức Giê-hô-va đã phán dặn.

20 Con-cháu Ru-bên, là trưởng-nam của Y-sơ-ra-ên, dòng-dõi họ tùy theo họ-hàng và tông-tộc mình, cứ kể từng tên của hết thảy nam-đinh từ hai mươi tuổi sắp lên, tức là mọi người trong chi-phái Ru-bên đi ra trận được, 21 số là bốn mươi sáu ngàn năm trăm.

22 Con-cháu Si-mê-ôn, dòng-dõi họ tùy theo họ-hàng và tông-tộc mình, cứ kể từng tên của hết thảy nam-đinh từ hai mươi tuổi sắp lên, tức là mọi người trong chi-phái Si-mê-ôn đi ra trận được, 23 số là năm mươi chín ngàn ba trăm.

24 Con-cháu Gát, dòng-dõi họ tùy theo họ-hàng và tông-tộc mình, cứ kể từng tên từ hai mươi tuổi sắp lên, tức là mọi người trong chi-phái Gát đi ra trận được, 25 số là bốn mươi lăm ngàn sáu trăm năm mươi.

26 Con-cháu Giu-đa, dòng-dõi họ tùy theo họ-hàng và tông-tộc mình, cứ kể từng tên, từ hai mươi tuổi sắp lên, tức là mọi người trong chi-phái Giu-đa đi ra trận được, 27 số là bảy mươi bốn ngàn sáu trăm.

28 Con-cháu của Y-sa-ca, dòng-dõi họ tùy theo họ-hàng và tông-tộc mình, cứ kể từng tên, từ hai mươi tuổi sắp lên, tức là mọi người trong chi-phái Y-sa-ca đi ra trận được, 29 số là năm mươi bốn ngàn bốn trăm.

30 Con-cháu của Sa-bu-lôn, dòng-dõi họ tùy theo họ-hàng và tông-tộc mình, cứ kể từng tên, từ hai mươi tuổi sắp lên, tức là mọi người trong chi-phái Sa-bu-lôn đi ra trận được, 31 số là năm mươi bảy ngàn bốn trăm.

32 Về hậu-tự Giô-sép, là con-cháu Ép-ra-im, dòng-dõi họ tùy theo họ-hàng và tông-tộc mình, cứ kể từng tên, từ hai mươi tuổi sắp lên, tức là mọi người trong chi-phái Ép-ra-im đi ra trận được, 33 số là bốn mươi ngàn năm trăm.

34 Con-cháu Ma-na-se, dòng-dõi họ tùy theo họ-hàng và tông-tộc mình, cứ kể từng tên, từ hai mươi tuổi sắp lên, tức là mọi người trong chi-phái Ma-na-se đi ra trận được, 35 số là ba mươi hai ngàn hai trăm.

36 Con-cháu Bên-gia-min, dòng-dõi họ tùy theo họ-hàng và tông-tộc mình, cứ kể từng tên, từ hai mươi tuổi sắp lên, tức là mọi người trong chi-phái Bên-gia-min đi ra trận được, 37 số là ba mươi lăm ngàn bốn trăm.

38 Con-cháu Đan, dòng-dõi họ tùy theo họ-hàng và tông-tộc mình, cứ kể từng tên, từ hai mươi tuổi sắp lên, tức là mọi người trong chi-phái Đan đi ra trận được, 39 số là sáu mươi hai ngàn bảy trăm.

40 Con-cháu A-se, dòng-dõi họ tùy theo họ-hàng và tông-tộc mình, cứ kể từng tên, từ hai mươi tuổi sắp lên, tức là mọi người trong chi-phái A-se đi ra trận được, 41 số là bốn mươi mốt ngàn năm trăm.

42 Con-cháu Nép-ta-li, dòng-dõi họ tùy theo họ-hàng và tông-tộc mình, cứ kể từng tên, từ hai mươi tuổi sắp lên, tức là mọi người trong chi-phái Nép-ta-li đi ra trận được, 43 số là năm mươi ba ngàn bốn trăm.

44 Đó là những người mà Môi-se, A-rôn, và mười hai quan-trưởng Y-sơ-ra-ên kê sổ; mỗi quan-trưởng kê sổ cho tông-tộc mình. 45 Thế thì, hết thảy những người trong dân Y-sơ-ra-ên đã được nhập sổ tùy theo tông-tộc mình, từ hai mươi tuổi sắp lên, tức là mọi người trong Y-sơ-ra-ên đi ra trận được, 46 số là sáu trăm ba ngàn năm trăm năm mươi.

Chi-phái Lê-vi

47 Nhưng người Lê-vi, theo chi-phái tổ-phụ mình, không kê sổ chung với những chi-phái khác. 48 Vì Đức Giê-hô-va có phán cùng Môi-se rằng: 49 Ngươi chớ kê sổ chi-phái Lê-vi, và cũng đừng dựng bộ họ chung với dân Y-sơ-ra-ên; 50 nhưng hãy cắt phần người Lê-vi coi-sóc đền-tạm chứng-cớ, hết thảy đồ-đạc và các món thuộc về đền-tạm. Ấy là người Lê-vi sẽ chuyên-vận đền-tạm và hết thảy đồ-đạc nó, cùng sẽ làm công-việc về đền-tạm và đóng trại ở chung quanh đền-tạm. 51 Khi nào đền-tạm dời chỗ, thì người Lê-vi sẽ tháo dỡ nó; khi nào đền-tạm dừng lại, thì họ sẽ dựng nó lên; còn người ngoại đến gần sẽ bị xử-tử. 52 Dân Y-sơ-ra-ên mỗi người phải đóng ở trong trại-quân mình, và mỗi trại-quân, từng đội-ngũ, phải đóng gần bên ngọn cờ mình. 53 Nhưng người Lê-vi sẽ đóng trại chung-quanh đền-tạm chứng-cớ, để đừng có sự giận-dữ cùng hội-dân Y-sơ-ra-ên; người Lê-vi sẽ coi-sóc đền-tạm chứng-cớ. 54 Dân Y-sơ-ra-ên làm y như mọi đều Đức Giê-hô-va đã phán dặn Môi-se vậy.

Thứ-tự về sự đóng trại

2   1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se và A-rôn rằng: 2 Dân Y-sơ-ra-ên mỗi người phải đóng trại gần bên ngọn cờ mình, ở duới bảng-hiệu của tông-tộc mình, đối ngang nhau vây chung-quanh hội-mạc.

3 Trại-quân Giu-đa sẽ đóng tại hướng đông, về phía mặt trời mọc, với ngọn cờ và những đội-ngũ của mình. Quan-trưởng của người Giu-đa là Na-ha-sôn, con trai của A-mi-na-đáp; 4 và quân-đội người, cứ theo kê sổ, cộng bảy mươi bốn ngàn sáu trăm người. 5 Chi-phái Y-sa-ca phải đóng trại bên Giu-đa; quan-trưởng của người Y-sa-ca là Na-tha-na-ên, con trai Xu-a; 6 và quân-đội người, cứ theo kê sổ, cộng năm mươi bốn ngàn bốn trăm người. 7 Kế đến chi-phái Sa-bu-lôn; quan-trưởng của người Sa-bu-lôn là Ê-li-áp, con trai của Hê-lôn, 8 và quân-đội người, cứ theo kê sổ, cộng năm mươi bảy ngàn bốn trăm người. 9 Vậy, các người đã kê sổ theo trại-quân Giu-đa, từng đội-ngũ, cộng một trăm tám mươi sáu ngàn bốn trăm người. Họ phải đi tiên-phong.

10 Ngọn cờ của trại-quân Ru-bên và những đội-ngũ mình, phải đóng về hướng nam. Quan-trưởng của người Ru-bên là Ê-li-su, con trai của Sê-đêu; 11 và quân-đội người, cứ theo kê sổ, cộng bốn mươi sáu ngàn năm trăm người. 12 Chi-phái Si-mê-ôn phải đóng trại bên Ru-bên; quan-trưởng của người Si-mê-ôn là Sê-lu-mi-ên, con trai của Xu-ri-ha-đai; 13 và quân-đội người, cứ theo kê sổ, cộng năm mươi chín ngàn ba trăm người. 14 Kế đến chi-phái Gát; quan-trưởng của người Gát là Ê-li-a-sáp, con trai của Rê-u-ên; 15 và quân-đội người, cứ theo kê sổ, cộng bốn mươi lăm ngàn sáu trăm năm mươi người. 16 Vậy, các người đã kê sổ theo trại-quân Ru-bên, từng đội-ngũ, cộng một trăm năm mươi mốt ngàn bốn trăm năm mươi người. Họ phải đi thứ nhì.

17 Sau ấy, hội-mạc sẽ đi với trại-quân Lê-vi, ở giữa các trại-quân khác; trại-quân Lê-vi sẽ đi theo thứ-tự như đã đóng, mỗi người theo hàng-ngũ và theo ngọn cờ mình.

18 Ngọn cờ của trại-quân Ép-ra-im và những quân-đội người phải đóng về hướng tây; quan-trưởng của người Ép-ra-im là Ê-li-sa-ma, con trai A-mi-hút; 19 và quân-đội nưgời, cứ theo kê sổ, cộng bốn mươi ngàn năm trăm người. 20 Chi-phái Ma-na-se phải đóng trại bên Ép-ra-im; quan-trưởng của người Ma-na-se là Ga-ma-li-ên, con trai của Phê-đát-su; 21 và quân-đội người, cứ theo kê sổ, cộng ba mươi hai ngàn hai trăm người. 22 Kế đến chi-phái Bên-gia-min; quan-trưởng của người Bên-gia-min là A-bi-đan, con trai của Ghi-đeo-ni; 23 và quân-đội người, cứ theo kê sổ, cộng ba mươi lăm ngàn bốn trăm người. 24 Vậy, các người đã kê sổ theo trại-quân Ép-ra-im, từng đội-ngũ, cộng một trăm tám ngàn một trăm người. Họ phải đi thứ ba.

25 Ngọn cờ của trại-quân Đan và những quân-đội họ phải đóng về hướng bắc. Quan-trưởng của người Đan là A-hi-ê-xe, con trai của A-mi-sa-đai; 26 và quân-đội người, cứ theo kê sổ, cộng sáu mươi hai ngàn bảy trăm người. 27 Chi-phái A-se phải đóng trại bên Đan; quan-trưởng của người A-se là Pha-ghi-ên, con trai của Óc-ran; 28 và quân-đội người, cứ theo kê sổ, cộng bốn mươi mốt ngàn năm trăm người. 29 Kế đến chi-phái Nép-ta-li; quan-trưởng của người Nép-ta-li là A-hi-ra, con trai của Ê-nan; 30 và quân-đội người, cứ theo kê sổ, cộng năm mươi ba ngàn bốn trăm người. 31 Vậy, các người đã kê sổ theo trại-quân Đan, cộng một trăm năm mươi bảy ngàn sáu trăm người. Họ theo ngọn cờ mình phải đi hậu-binh.

32 Đó là những người trong dân Y-sơ-ra-ên mà người ta tu-bộ tùy theo tông-tộc mình. Trong các trại-quân hết thảy người đã kê sổ từng đội-ngũ là sáu trăm ba ngàn năm trăm năm mươi người. 33 Nhưng người Lê-vi không nhập sổ chung với dân Y-sơ-ra-ên, tùy theo mạng của Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se. 34 Dân Y-sơ-ra-ên y theo mọi đều Đức Giê-hô-va đã phán dặn Môi-se, bèn đóng trại tùy theo ngọn cờ mình, và mỗi người ra đi tùy theo họ-hàng và tông-tộc mình.