Nê-hê-mi Xây dựng lại Bức tường
Trong khi E-xơ-ra đang tiến hành việc hồi sinh luật pháp ở Y-sơ-ra-ên, một người đàn ông sẽ sớm trở thành cộng sự thân cận nhất của ông đang ở lại trong cung điện Ba Tư tại Su-sơ với vị trí người phục vụ rượu của vua. Điều đó có thể không nghe như một bước đệm có thể đến sự vĩ đại chính trị, hay thậm chí là một vị trí đáng chú ý, nhưng xét đến thực tế rằng nhiều vị vua đã chết vì bị đầu độc, việc trở thành người phục vụ rượu hoàng gia là một vị trí có lòng tin tuyệt đại. Người đàn ông nắm giữ vị trí đó trong nhà Ạt-ta-xét-xe là một người Do Thái tên Nê-hê-mi. Mối quan hệ giữa Ạt-ta-xét-xe và Nê-hê-mi rõ ràng là thân thiết hơn nhiều so với mức mà người ta thường có thể mong đợi. Đây vừa là một lời khen cho Nê-hê-mi vừa là một cái nhìn sâu sắc về tính cách của Ạt-ta-xét-xe.
Đã khoảng 14 năm kể từ khi Ạt-ta-xét-xe cho phép E-xơ-ra dẫn nhóm người lưu đày thứ hai trở lại Giê-ru-sa-lem. Trong thời gian đó, việc xây dựng thêm thành phố và bức tường của nó đã bị cản trở bởi một số vấn đề, rõ ràng bao gồm cả việc phá hoại bởi những người muốn thấy Y-sơ-ra-ên vẫn yếu đuối. Những kẻ phản đối chính của Y-sơ-ra-ên là một số quý tộc có đầu óc thế tục và sợ hãi, cũng như San-ba-lát và các lãnh đạo khác của Sa-ma-ri, những người vẫn còn oán giận từ thời họ từ chối sự giúp đỡ của họ trong việc xây dựng đền thờ.
Bây giờ, vào năm 445 TCN, một báo cáo về sự chậm trễ này đến với Nê-hê-mi thông qua một trong những anh em của ông, người vừa mới đến từ Pa-lét-tin. Báo cáo này làm cho Nê-hê-mi buồn đến mức Ạt-ta-xét-xe nhận ra nỗi buồn của ông và hỏi về nguyên nhân. Khi Nê-hê-mi giải thích mối quan tâm của mình, Ạt-ta-xét-xe đồng ý bổ nhiệm Nê-hê-mi làm tổng trấn tạm thời và ủy nhiệm cho ông đi đến Giê-ru-sa-lem để xây dựng lại bức tường. Không mất nhiều thời gian để thấy rằng Nê-hê-mi là một người hành động. Ông ngay lập tức đi đến Giê-ru-sa-lem, đánh giá tình hình trước, nghĩ ra một kế hoạch khéo léo để làm việc trên bức tường, tránh các đối thủ của mình, và hoàn thành sứ mệnh chính của mình trong vòng sáu tháng sau khi nhận được nhiệm vụ từ vua! Đây là cách mọi việc diễn ra.
Bài cầu-nguyện của Nê-hê-mi cho dân Y-sơ-ra-ên
1 1 Lời của Nê-hê-mi, con trai Ha-ca-lia.
Năm thứ hai mươi, nhằm tháng Kít-lơ, xảy khi tôi đương ở tại kinh-đô Su-sơ, 2 có một người trong anh em tôi tên là Ha-na-ni với vài người Giu-đa, đến tôi hỏi thăm chúng về dân Giu-đa đã được thoát khỏi, tức những kẻ đã bị bắt làm phu-tù còn sót lại, và hỏi luôn về những việc Giê-ru-sa-lem. 3 Các người ấy nói với tôi rằng: Những kẻ bị bắt làm phu-tù còn sót ở lại trong tỉnh, bị tai-nạn và sỉ-nhục lắm; còn vách-thành của Giê-ru-sa-lem thì hư-nát và các cửa nó đã bị lửa cháy.
4 Khi tôi nghe các lời ấy, bèn ngồi mà khóc, cư tang mấy ngày; tôi cữ ăn và cầu-nguyện Đức Chúa của các từng trời, mà rằng: 5 Ôi! Giê-hô-va Đức Chúa của các từng trời, tức Đức Chúa Trời cực-đại và đáng kính, hay giữ lời giao-ước và lòng nhân-từ cùng kẻ nào kính-mến Ngài và vâng giữ các điều-răn của Ngài! 6 Tôi xin mắt Chúa hãy đoái đến và lỗ tai Chúa lắng nghe lời cầu-nguyện của kẻ đầy-tớ Chúa, mà tôi hiện lúc nầy hằng ngày và đêm cầu-nguyện vì dân Y-sơ-ra-ên, là các tôi-tớ Chúa, ở tại trước mặt Chúa và xưng những tội của dân Y-sơ-ra-ên mà chúng tôi đã phạm với Ngài. Và lại tôi và nhà của tổ-phụ tôi cũng có phạm tội. 7 Chúng tôi có làm rất ác-tệ nghịch cùng Chúa, không vâng giữ điều-răn giới-mạng và luật-lệ của Chúa đã phán dạy Môi-se, là kẻ tôi-tớ Chúa. 8 Xin Chúa hãy nhớ lại lời Chúa đã phán dạy Môi-se, kẻ tôi-tớ Chúa, rằng: Nếu các ngươi phạm tội, ta sẽ tan-rải các ngươi giữa các dân-tộc; 9 còn nếu các ngươi trở lại cùng ta, gìn-giữ làm theo các điều-răn của ta, dầu khi kẻ bị tan-lạc của các ngươi ở cuối-tận trời, ta cũng sẽ từ đó chiêu-tập chúng nó về, và dẫn chúng nó đến nơi ta đã chọn đặng cho danh ta ngự tại đó. 10 Vả, chúng là các tôi-tớ và dân-sự của Chúa, mà Chúa đã cậy quyền-năng và tay mạnh-mẽ mà chuộc lại. 11 Chúa ôi! tôi nài-xin Chúa hãy lắng tai nghe lời cầu-nguyện của kẻ tôi-tớ Ngài và lời cầu-nguyện của các tôi-tớ Ngài vẫn vui lòng kính-sợ danh Ngài; ngày nay xin Chúa hãy làm cho tôi-tớ Chúa được may-mắn, và ban cho nó tìm được sự nhơn-từ trước mặt người nầy. Vả, bấy giờ tôi làm quan tửu-chánh của vua.
Ạt-ta-xét-xe cho phép Nê-hê-mi đi xây-cất Giê-ru-sa-lem lại
2 1 Đương năm thứ hai mươi đời vua Ạt-ta-xét-xe, tháng Ni-san, rượu sẵn ở trước mặt người, tôi lấy rượu dâng cho vua; trước tôi không hề có bộ buồn-rầu tại trước mặt người. 2 Vua nói với tôi rằng: Nhơn sao ngươi mặt-mày buồn, dầu mà ngươi không có bịnh? Đều đó chỉ là sự buồn-rầu trong lòng mà thôi. Bấy giờ tôi lấy làm sợ-hãi lắm, 3 bèn nói với vua rằng: Nguyện vua vạn tuế! Lẽ nào mặt tôi không buồn, khi cái thành, là nơi có mồ-mả của tổ-phụ tôi, bị phá hoang, và các cửa thành bị lửa thiêu đốt? 4 Vua hỏi tôi rằng: Ngươi cầu-xin cái gì? Tôi bèn cầu-nguyện cùng Đức Chúa của các từng trời, 5 rồi tâu với vua rằng: Nếu vua thấy đều đó là tốt-lành, nếu kẻ tôi-tớ vua được ơn trước mặt vua, xin vua hãy sai tôi về Giu-đa, đến thành có mồ-mả của tổ-phụ tôi, để tôi xây-cất thành ấy lại. — 6 Đương khi ấy hoàng-hậu cũng ngồi bên cạnh vua. — Vua bèn hỏi tôi rằng: Ngươi đi đường lâu chừng bao nhiêu, và khi nào ngươi trở về? Vậy, vua đẹp lòng sai tôi đi, và tôi định nhựt kỳ cho người. 7 Tôi cũng thưa với vua rằng: Nếu đều nầy được đẹp lòng vua, xin vua hãy trao cho tôi những bức thơ truyền các quan tổng-trấn bên kia sông cho phép tôi đi ngang qua cho đến khi tôi tới Giu-đa; 8 lại ban chiếu-chỉ cho A-sáp, kẻ giữ rừng vua, truyền người cho tôi gỗ làm khuôn cửa của thành-điện giáp với đền, và làm vách-thành, cùng nhà mà tôi phải vào ở. Vua bèn ban cho tôi các đều đó, tùy theo tay nhơn-lành của Đức Chúa Trời tôi giúp-đỡ tôi.
9 Vậy, tôi đến cùng các quan tổng-trấn bên kia sông, vào trao cho họ những bức thơ của vua. Vả, vua có sai những quan-tướng và quân-kỵ đi với tôi. 10 Khi San-ba-lát, người Hô-rôn, và Tô-bi-gia, là kẻ tôi-tớ Am-môn, hay đều đó, thì lấy làm bất-bình vì có người đến đặng tìm-kiếm sự hưng-thạnh của dân Y-sơ-ra-ên.
11 Vậy, tôi đến Giê-ru-sa-lem và ở tại đó ba ngày. 12 Tôi và mấy người cùng theo tôi, bèn chổi dậy ban đêm; tôi chẳng cho ai hay biết sự gì Đức Chúa Trời đã khiến lòng tôi toan làm vì Giê-ru-sa-lem; lại ngoài con thú tôi cỡi thì chẳng có con thú nào khác ở với tôi. 13 Ban đêm tôi ra nơi cửa Trũng, đối ngang suối chó rừng, và đến cửa phân, xem-xét các vách-thành của Giê-ru-sa-lem bị hư-nát, và các cửa nó bị lửa thiêu-đốt. 14 Đoạn, tôi đi qua cửa Giếng, và đến nơi ao của vua; song không có nơi nào đặng cho con thú tôi cỡi đi ngang qua được. 15 Kế đó, ban đêm tôi bắt đường khe đi lên, xem-xét vách-thành; rồi tôi thối lại, vào nơi cửa Trũng mà trở về. 16 Vả, các quan-trưởng không hiểu tôi đi đâu, nào rõ tôi làm gì; và đến chừng ấy, tôi chưa tỏ ra cho người Giu-đa, hoặc cho những thầy tế-lễ, hoặc cho kẻ quyền-quí, hoặc cho quan-trưởng, hay là cho các người khác lo làm công-việc, được biết gì đến.
17 Tôi bèn nói với chúng rằng: Các ngươi hãy xem tình-cảnh khổ-nạn của chúng ta đương đây; Giê-ru-sa-lem bị phá-hoang, và các cửa nó bị lửa thiêu-đốt. Hãy đến, xây-cất các vách-thành Giê-ru-sa-lem lại, hầu cho chúng ta chẳng còn bị sỉ-nhục nữa. 18 Tôi cũng thuật cho chúng làm sao tay nhơn-từ của Đức Chúa Trời tôi đã giúp-đỡ tôi, và các lời vua đã nói cùng tôi. Chúng nói: Hè, ta hãy chổi dậy và xây-sửa lại! Vậy, chúng được vững-chắc trong ý nhứt-định làm công-việc tốt-lành nầy.
19 San-ba-lát, người Hô-rôn, Tô-bi-gia, kẻ tôi-tớ Am-môn, và Ghê-sem, người A-rạp, được hay việc đó, bèn nhạo-báng và khinh-bỉ chúng tôi. Chúng nó nói rằng: Các ngươi làm chi đó? Các ngươi có ý phản-nghịch vua sao? 20 Tôi bèn đáp với chúng nó rằng: Đức Chúa của các từng trời sẽ ban cho chúng ta sự hanh-thông; vì vậy, chúng ta, là tôi-tớ Ngài, sẽ chổi dậy và xây-sửa lại; nhưng các ngươi không có phần, hoặc phép, hoặc kỷ-niệm trong Giê-ru-sa-lem.
Sửa các vách-thành Giê-ru-sa-lem lại
3 1 Ê-li-a-síp, thầy tế-lễ thượng-phẩm, chổi dậy với các anh em mình, là những thầy tế-lễ, và xây-cất cái cửa Chiên. Chúng biệt nó riêng ra thánh và đặt hai cánh cửa; chúng biệt nó riêng ra thánh cho đến tháp Mê-a và cho đến tháp Ha-na-nê-ên. 2 Kế Ê-li-a-síp, người thành Giê-ri-cô xây-cất; kế chúng, Xa-cu, con trai của Im-ri, xây-cất.
3 Con-cháu của Sê-na xây-cất cửa Cá. Chúng đặt khuôn và tra cánh, chốt với then nó. 4 Kế chúng, Mê-rê-mốt, con trai của U-ri, cháu của Ha-cốt, lo sửa xây. Kế chúng, Mê-su-lam, con trai Bê-rê-kia, cháu Mê-sê-xa-bê-ên, làm tu-bổ. Kế chúng, Xa-đốc, con trai của Ba-a-na, tu-bổ. 5 Kế chúng, những người Tê-cô-a tu-bổ; song các người tước-vị họ chẳng ghé vai vào công-việc của Chúa mình.
6 Giô-gia-đa, con trai của Pha-sê-a và Mê-su-lam, con trai của Bê-sô-đia, sửa-xây cái cửa cũ lại; chúng lợp nó, tra cánh, chốt, và then. 7 Kế chúng, Mê-la-tia, là người Ga-ba-ôn, và Gia-đôn, là người Mê-rô-nốt, cùng những người Ga-ba-ôn và người Mích-ba, thuộc về địa-hạt của quan tổng-trấn bên kia sông, đều tu-bổ. 8 Kế chúng, U-xi-ên, con trai Hạt-ha-gia, một kẻ trong bọn thợ vàng, tu-bổ; kế người, Ha-na-nia, là người trong bọn thợ hòa-hương, tu-bổ; họ sửa-xây Giê-ru-sa-lem cho vững-bền đến vách rộng. 9 Kế họ, Rê-pha-gia, con trai của Hu-rơ, làm quản-lý phân nửa quận Giê-ru-sa-lem, tu-bổ. 10 Kế họ, Giê-đa-gia, con trai Ha-ru-máp, tu-bổ nơi đối ngang với nhà người. Kế người, Hát-túc, con trai của Ha-sáp-nia, tu-bổ. 11 Manh-ki-gia, con trai của Ha-rim, và Ha-súp, con trai của Pha-hát-Mô-áp, tu-bổ một phần khác và cái tháp lò. 12 Kế chúng, Sa-lum, con trai của Ha-lô-he, làm quản-lý phân nửa quận Giê-ru-sa-lem, và các con gái của người, đều tu-bổ.
13 Ha-nun và dân-cư Xa-nô-a sửa cái cửa Trũng; chúng xây-cất nó, tra cánh cửa, chốt, và then; cũng xây một ngàn thước vách-ngăn, cho đến cửa phân.
14 Manh-ki-gia, con trai Rê-cáp, quản-lý quận Bết-Hác-kê-rem, sửa cái cửa phân; người xây cất nó, tra cánh cửa, chốt, và then.
15 Sa-lun, con trai của Côn-Hô-xe, quản-lý quận Mích-ba, sửa cái cửa Giếng; người xây-cất nó, lợp nó, tra cánh cửa, chốt, và then; cũng xây vách-ngăn của ao Si-lô-ê gần bên vườn vua, và cho đến cái thang từ thành Đa-vít trở xuống.
16 Kế người, Nê-hê-mi, con trai của A-búc, quản-lý phân nửa quận Bết-Xu-rơ, sửa-xây vách cho đến ngang các lăng-tẩm Đa-vít, cho đến ao đã đào, và cho đến nhà của các dõng-sĩ. 17 Kế người, Rê-hum, con trai Ba-ni, người Lê-vi, tu-bổ. Kế người, Ha-sa-bia, quản-lý phân nửa quận Kê-i-la, tu-bổ về phần quận mình. 18 Kế người, có anh em của họ, là Ba-vai, con trai của Hê-na-đát, quản-lý phân nửa quận Kê-i-la, tu-bổ. 19 Kế người, Ê-xe, con trai của Giô-suê, quản-lý Mích-ba, tu-bổ một phần khác, đối ngang dốc đi lên kho binh-khí ở về góc thành. 20 Sau người có Ba-rúc, con trai của Xáp-bai, lấy lòng sốt-sắng tu-bổ một phần khác, từ góc thành cho đến cửa vào nhà Ê-li-a-síp, thầy tế-lễ thượng-phẩm. 21 Sau người có Mê-rê-mốt, con trai U-ri, cháu Ha-cốt, sửa một phần khác, từ cửa vào nhà Ê-li-a-síp cho đến cuối nhà người. 22 Sau người có những thầy tế-lễ, là kẻ ở đồng bằng Giô-đanh, tu-bổ. 23 Kế chúng, Bên-gia-min và Ha-súp tu-bổ phần đối ngang nhà mình. Kế chúng, A-xa-ria, con trai của Ma-a-xê-gia, cháu A-na-nia, tu-bổ phía bên nhà mình. 24 Kế người, Bin-nui, con trai của Hê-na-đát, sửa một phần khác, từ nhà A-xa-ria cho đến nơi cạnh và cho đến góc thành. 25 Pha-lanh, con trai của U-xai, sửa nơi đối ngang góc thành và nơi tháp cao ló ra của đền vua, đụng giáp cái sân ngục. Kế người đó có Phê-đa-gia, con trai của Pha-rốt, tu-bổ. 26 Vả, người Nê-thi-nim ở tại Ô-phên cho đến nơi đối ngang cửa Nước về phía đông, và tháp ló ra, 27 Kế người ấy có người Thê-cô-a sửa một phần khác đối ngang tháp lớn ló ra, và cho đến vách Ô-phên.
28 Những thầy tế-lễ sửa nơi phía trên cửa Ngựa, mỗi người sửa phần đối ngang nhà của mình. 29 Sau chúng, Xa-đốc, con trai Y-mê, sửa nơi đối ngang nhà mình. Kế sau người có Sê-ma-gia, con trai Sê-ca-nia, kẻ giữ cửa đông, tu-bổ. 30 Kế người, Ha-na-nia, con trai của Sê-lê-mia, và Ha-nun, con thứ sáu của Xa-láp, sửa một phần khác. Kế chúng, Mê-su-lam, con trai của Bê-rê-kia, sửa nơi đối ngang nhà mình. 31 Kế người, Manh-ki-gia, một người trong bọn thợ vàng, sửa cho đến nhà của người Nê-thi-nim và tay buôn-bán, đối ngang cửa Mi-phơ-cát, và cho đến nơi dốc của góc thành. 32 Còn những thợ vàng và tay buôn-bán đều sửa phần giữa nơi góc thành và cửa Chiên.