Ngày 17 tháng Chín

< Lui     Trang Lịch     Tới >

Đọc Gióp 38:1-42:17

Đức Chúa Trời đáp lời cho Gióp

38 1 Bấy giờ, từ giữa cơn gió trốt, Đức Chúa Trời đáp cùng Gióp rằng:

2 Kẻ nầy là ai dám dùng các lời không tri-thức,
Mà làm cho mờ-ám các mưu-định ta?
3 Khá thắt lưng người như kẻ dõng-sĩ;

Ta sẽ hỏi ngươi, ngươi sẽ chỉ-dạy cho ta!
4 Khi ta đặt nền trái đất, thì ngươi ở đâu?
Nếu ngươi thông-sáng, hãy tỏ-bày đi.
5 Ai đã định độ-lượng nó,
Và giăng dây mực trên nó, ngươi có biết chăng?
6 Nền nó đặt trên chi?
Ai có trồng hòn đá góc của nó?
7 Trong khi ấy các sao mai đồng hát hòa nhau,
Và các con trai Đức Chúa Trời cất tiếng reo mừng.

8 Vả lại, khi biển bể bờ và cất ra khỏi lòng đất,
Ai đã lấy các cửa mà ngăn đóng nó lại?
9 Khi ấy ta ban cho nó mây làm áo-xống,
Lấy tăm-tối làm khăn-vấn của nó;
10 Ta định giới-hạn cho nó,
Đặt then-chốt và cửa của nó,
11 Mà rằng: Mầy đến đây, chớ không đi xa nữa,
Các lượn sóng kiêu-ngạo mầy phải dừng lại tại đây!

12 Từ khi ngươi sanh, ngươi há có sai-khiến buổi sáng,
Và phân-định chỗ cho hừng-đông,
13 Để nó chiếu đến bốn bề trái đất,
Và đuổi rày kẻ gian-ác khỏi nó chăng?
14 Trái đất biến hình như đất sét dưới dấu ấn,
Và mọi vật hiện ra trau-giồi như bằng áo.
15 Sự sáng đã cất khỏi kẻ ác,
Cánh tay chúng nó giơ lên, đã bị gãy rồi.

16 Chớ thì ngươi có thấu đến nguồn của biển sao?
Há có bước dưới đáy của vực-sâu chăng?
17 Cửa âm-phủ há có bày ra trước mặt ngươi chớ?
Có thấy các cửa của bóng sự chết chăng?….
18 Lằn mắt ngươi có thấu đến nơi khoan-khoát minh-mông của đất chăng?
Nếu ngươi biết các đều đó, hãy nói đi.

19 Con đường dẫn đến nơi ở của ánh-sáng là đâu?
Còn nơi của tối-tăm thì ở đâu?
20 Chớ thì ngươi có thế dẫn nó lại vào địa-giới nó sao?
Có biết các đường-lối của nhà nó ở chăng.
21 Không sai, người biết mà! vì ngươi đã sanh trước khi ấy,
Số ngày ngươi lấy làm nhiều thay
22 Ngươi có vào các kho tuyết chăng?
Có thấy nơi chứa mưa đá,
23 Mà ta đã để dành cho thì hoạn-nạn,
Cho ngày chiến-trận và giặc-giã chăng?
24 Ánh-sáng phân ra bởi đường nào,
Và gió đông theo lối nào mà thổi ra trên đất?

25 Ai đào kinh cho nước mưa chảy,
Phóng đường cho chớp-nhoáng của sấm-sét,
26 Để mưa xuống đất bỏ hoang,
Và trên đồng-vắng không có người ở;
27 Đặng tưới đất hoang-vu, mong-quạnh,
Và làm cho các chồi cây cỏ mọc lên?

28 Mưa có cha chăng?
Ai sanh các giọt sương ra?
29 Nước đá ra bởi lòng của ai?
Ai đẻ ra sương-móc của trời?
30 Nước đông lại như đá, rồi ẩn-bí,
Và mặt vực sâu trở thành cứng.

31 Ngươi có thế riết các dây chằng Sao-rua lại,

Và tách các xiềng Sao-cầy ra chăng?
32 Ngươi có thế làm cho các cung Huỳnh-đạo ra theo thì,
Và dẫn đường cho Bắc-đẩu với các sao theo nó chăng?
33 Ngươi có biết luật của các từng trời sao?
Có thể lập chủ-quyền nó dưới đất chăng?
34 Ngươi có thế cất tiếng mình la lên cùng mây,
Khiến cho mưa tuôn xuống thân ngươi chăng?
35 Ngươi có thế thả chớp-nhoáng ra,
Để nó đi, và đáp với ngươi rằng: Thưa, chúng tôi đây?
36 Ai có đặt khôn-ngoan trong lòng,
Và ban sự thông-sáng cho trí-não?
37 Ai nhờ sự khôn-ngoan mà đếm được các mây?
Khi bụi-đất chảy như loài kim tan ra,
38 Và các cục đất dính lại nhau,
Ai nghiêng đổ những bình nước của các từng trời?

Quyền-năng và khôn-ngoan của Đức Chúa Trời hiện ra nhiều cách

39 1 Khi mẹ con sư-tử nằm phục nơi hang,
Khi rình trong bụi-rậm nó,
2 Há có phải ngươi săn mồi cho sư-tử cái,
Và làm cho sư-tử con đói được no sao?
3 Ai sắm đồ ăn cho quạ,
Khi con nhỏ nó kêu-la cùng Đức Chúa Trời,
Và bay đi đây đó không đồ ăn?

4 Ngươi có biết thì nào dê rừng đẻ chăng?
Có xem-xét mùa nào nai cái đẻ chăng?
5 Ngươi có tính số tháng nó có thai,
Và biết kỳ nó đẻ chăng?
6 Nó ngồi chồm-hỗm, đẻ con nhỏ ra,
Và được giải khỏi sự đau-đớn của nó.
7 Các con nhỏ nó trở nên mạnh-mẽ, lớn lên trong đồng-nội;
Đoạn lìa mẹ mình, chẳng còn trở lại nữa.

8 Ai để cho con lừa rừng chạy thong-dong?
Ai có mở trói cho con lừa lẹ-làng kia?
9 Ta đã ban cho nó đồng-vắng làm nhà,
Và ruộng mặn làm nơi-ở.
10 Nó khinh-chê tiếng ồn-ào của thị-thành,
Không nghe tiếng của kẻ coi dắt.
11 Khắp các núi là đồng cỏ của nó,
Nó tìm-kiếm mọi vật gì xanh-tươi.

12 Chớ thì con bò tót muốn làm việc cho ngươi chăng?
Nó chịu ở gần bên máng cỏ ngươi chớ?
13 Ngươi há có thể lấy dây cột bò tót nơi giòng cày sao?
Nó sẽ chịu theo sau ngươi mà bừa trũng chăng?
14 Ngươi há sẽ nhờ-cậy nó, vì nó sức nhiều sao?
Ngươi sẽ giao công-lao mình cho nó chăng?
15 Chớ thì ngươi cậy nó đem ngũ-cốc ngươi về,
Và nhờ nó gom lúa mì lại trong sân ngươi ư?

16 Chim lạc-đà đập cánh vui-mừng;
Nhưng cánh và lông ấy, há có biết thương-yêu sao?
17 Vì nó để trứng mình dưới đất,
Vùi nóng trứng ấy nơi bụi-cát,
18 Quên rằng có lẽ chơn người bước nát nó,
Hoặc con thú đồng giày-đạp nó đi chăng.
19 Nó ở khắc-khổ với con nó, dường như không thuộc về nó,

Sự lao-khổ nó luống-công, nhưng nó không lo căm đến.
20 Vì Đức Chúa Trời cất sự khôn-ngoan khỏi nó,
Không chia-phân thông-sáng cho nó.
21 Khi nó đập cánh bay lên,
Bèn nhạo-báng ngựa và người cỡi ngựa.

22 Có phải ngươi ban sức-lực cho ngựa,
Và phủ cổ nó lông gáy rung-rung chăng?
23 Há có phải ngươi khiến nó nhảy búng như cào-cào chăng?
Tiếng kêu hí có oai của nó, thật đáng sợ.
24 Nó đào đất trong trũng, vui-mừng về sức-lực mình;
Nó xông tới đón quân cầm binh-khí.
25 Nó khinh-chê sự sợ, chẳng ghê đều chi;
Trước ngọn gươm nó không xây trở.
26 Trên nó vang tiếng gùi tên,
Giáo và lao sáng-giới.
27 Nó lướt dậm, vừa nhảy vừa hét,
Khi kèn thổi, nó chẳng cầm mình lại được.
28 Vừa khi nghe kèn thổi, nó bèn la: Hí! hí!
Từ xa nó đánh hơi mùi giặc,
Nghe tiếng ầm-ầm của các quan-tướng và tiếng reo-hô của chiến-sĩ.

29 Có phải nhờ sự khôn ngươi mà con diều vùng bay đi,
Và sè cánh nó về hướng nam?
30 Có phải theo lịnh ngươi mà chim ưng cất lên,
Và đóng ổ nó tại nơi cao?
31 Nó ở trong bàn-thạch, đậu trên chót-vót hòn đá,
Tại trên đỉnh núi không ai leo lên được.
32 Từ đó, nó rình mồi,
Mắt nó thấy mồi ở xa.
33 Các con nhỏ nó hút huyết,
Và hễ nơi nào có xác chết, thì nó bèn có tại đó.

34 Đức Giê-hô-va còn đáp lại cho Gióp, mà rằng:
35 Kẻ bắt-bẻ Đấng Toàn-năng há sẽ tranh-luận cùng Ngài sao?
Kẻ cãi luận cùng Đức Chúa Trời, hãy đáp đều đó đi!

36 Gióp bèn thưa cùng Đức Giê-hô-va rằng:
37 Tôi vốn là vật không ra gì, sẽ đáp chi với Chúa?
Tôi đặt tay lên che miệng tôi.
38 Tôi đã nói một lần, song sẽ chẳng còn đáp lại;
Phải, tôi đã nói hai lần, nhưng không nói thêm gì nữa.

Chỉ về con trâu nước và con sấu

40 1 Từ giữa trận gió trốt, Đức Giê-hô-va đáp cùng Gióp, mà rằng:

2 Hãy thắt lưng ngươi như kẻ dõng-sĩ;
Ta sẽ hỏi ngươi, ngươi sẽ chỉ-dạy cho ta!
3 Ngươi há có ý phế lý-đoán ta sao?
Có muốn định tội cho ta đặng xưng mình là công-bình ư?
4 Ngươi có một cánh tay như của Đức Chúa Trời chăng?
Có thể phát tiếng sấm-rền như Ngài sao?
5 Vậy bây giờ, ngươi hãy trang-điểm mình bằng sự cao-sang và oai-nghi,
Mặc lấy sự tôn-trọng và vinh-hiển.
6 Khá tuôn ra sự giận hoảng-hốt của ngươi;
Hãy liếc mắt xem kẻ kiêu-ngạo và đánh hạ nó đi.
7 Hãy liếc mắt coi kẻ kiêu-ngạo, và đánh hạ nó đi;

Khá chà-nát kẻ hung-bạo tại chỗ nó.
8 Hãy giấu chúng nó chung nhau trong bụi-đất,
Và lấp mặt họ trong chốn kín-đáo.
9 Bấy giờ, ta cũng sẽ khen-ngợi ngươi,
Vì tay hữu ngươi chửng-cứu ngươi được!

10 Nầy, con trâu nước (Theo tiếng Hê-bơ-rơ là Bê-hê-mốt, có lẽ là con trâu nước.) mà ta đã dựng-nên luôn với ngươi;
Nó ăn cỏ như con bò.
11 Hãy xem: sức nó ở nơi lưng,
Mãnh-lực nó ở trong gân hông nó.
12 Nó cong đuôi nó như cây bá-hương;
Gân đùi nó tréo xỏ-rế.
13 Các xương nó như ống đồng,
Tứ-chi nó như cây sắt.
14 Nó là công-việc khéo nhứt của Đức Chúa Trời;
Đấng dựng-nên nó giao cho nó cây gươm của nó.
15 Các núi-non sanh đồng cỏ cho nó ăn,
Là nơi các thú đồng chơi-giỡn.
16 Nó nằm ngủ dưới bông sen,
Trong bụi sậy và nơi bưng.
17 Bông sen che bóng cho nó,
Và cây liễu của rạch vây-quanh nó.
18 Kìa, sông tràn lên dữ-tợn, nhưng nó không sợ-hãi gì;
Dầu sông Giô-đanh bủa lên miệng nó, nó cũng ở vững-vàng.
19 Ai bắt được nó trước mặt?
Ai hãm nó trong lưới, rồi xoi mũi nó?

20 Ngươi có thể câu sấu (Theo tiếng Hê-bơ-rơ, Lê-vi-a-than, có lẽ là con sấu.) với lưỡi
câu,
Và dùng dây mà xỏ lưỡi nó chăng?
21 Có thể xỏ một sợi mây qua mũi nó,
Và xoi hàm nó bằng một cái móc ư?
22 Nó há sẽ cầu ơn nhiều cùng ngươi,
Và nói với ngươi những lời êm-ái sao?
23 Nó sẽ lập giao-ước với ngươi,
Để ngươi bắt nó làm tôi-mọi đời đời chớ?
24 Ngươi há sẽ chơi-giỡn với nó như với một con chim,
Cột nó cho các con gái nhỏ mình chơi hay sao?
25 Bọn thợ câu sẽ bán nó không?
Phân-phát nó cho các lái buôn chăng?
26 Ngươi có thể lấy cái đọc đâm đầy da nó,
Dùng lao phóng cá mà găm đầy đầu nó chăng?
27 Hãy thử tra tay ngươi trên mình nó:
Về sau khá nhớ việc tranh-đấu, — chớ hề làm lại nữa!
28 Kìa, sự trông bắt nó được bèn mất hết;
Chỉ thấy tướng-dạng nó, người ta liền rụng-rời đi.

41 1 Chẳng ai đủ gan dám trêu-chọc nó;
Vậy, ai sẽ đứng ở trước mặt ta cho nổi?
2 Ai ban cho ta trước đã, mà ta phải trả lại cho?
Phàm vật chi ở dưới trời đều thuộc về ta.

3 Ta hẳn sẽ nói về các chi-thể nó,
Về sức-lực nó, và sự tốt-đẹp của hình-trạng nó.
4 Có ai lột được áo choàng của nó không?
Có ai vào trong hàm đôi của nó được chăng?
5 Ai sẽ mở cửa họng nó ra?
Sự kinh-khủng vây chung-quanh răng nó.
6 Nó có oai-hùng vì cớ các hàng khiên của nó,
Bằng-thẳng dính khắn nhau như được niêm-phong;
7 Cái nầy đụng với cái khác,
Đến đỗi gió chẳng lọt qua được.

8 Cái nầy hàng lại với cái kia,
Dính với nhau, không hề rời-rã.
9 Sự nhảy mũi nó giăng ánh-sáng ra,
Hai con mắt nó khác nào mí mắt của rạng-đông.
10 Những ngọn lửa nhoáng từ miệng nó,
Và các đám lửa phun ra.
11 Từ lỗ mũi nó khói bay ra,
Như của một nồi sôi, có chụm sậy ở dưới.
12 Hơi-thở nó làm hừng cháy than,
Một ngọn lửa ra từ miệng nó.
13 Trong cổ nó có mãnh-lực,
Và sự kinh-khiếp nhảy-múa trước mặt nó.
14 Các yếm thịt nó dính chắc nhau,
Nó như đúc liền trên thân nó, không hề chuyển-động.
15 Trái tim nó cứng như đá,
Cứng khác nào thớt cối dưới.
16 Khi nó chổi-dậy, các kẻ anh-hùng đều run-sợ;
Vì bắt kinh-hãi nên chạy trốn đi.
17 Khi người ta lấy gươm đâm nó, gươm chẳng hiệu chi,
Dẫu cho giáo, cái đọc, hay là lao phóng cũng vậy.
18 Nó coi sắt khác nào rơm-cỏ,
Và đồng như thể cây mục.
19 Mũi tên không làm cho nó chạy trốn;
Đá trành với nó khác nào cây rạ,
20 Nó cũng xem gậy như rạ,
Cười-nhạo tiếng vo-vo của cây giáo.
21 Dưới bụng nó có những miểng nhọn,
Nó dường như trương bừa trên đất bùn.
22 Nó làm cho vực sâu sôi như một cái nồi;
Khiến biển trở thành như hũ dầu xức,
23 Và bỏ lại sau nó đường cày đi sáng-sủa;
Người ta có lẽ tưởng rằng vực sâu là tóc bạc.
24 Tại thế-thượng, chẳng có vật chi giống như nó;
Nó được dựng-nên để không sợ gì hết.
25 Nó nhìn-xem các vật cao-lớn;
Nó làm vua của các loài thú kiêu-ngạo.

Gióp tôn-vinh Đức Chúa Trời, Ngài tha lỗi người và ban cho người thạnh-vượng nhiều hơn trước

42 1 Gióp thưa với Đức Chúa Trời rằng:

2 Tôi biết rằng Chúa có thể làm được mọi sự,
Chẳng có ý-chỉ nào Chúa lấy làm khó lắm.
3 Kẻ nầy là ai, không hiểu-biết gì, lại dám che ám ý-chỉ của Chúa?
Phải, tôi đã nói những đều tôi không hiểu đến,
Tức các sự lạ-lùng quá cho tôi, mà tôi chẳng thông-biết.
4 Hỡi Chúa, xin hãy nghe, tôi sẽ nói;
Tôi sẽ hỏi Chúa, Chúa sẽ chỉ-dạy cho tôi.
5 Trước lỗ tai tôi có nghe đồn về Chúa,
Nhưng bây giờ, mắt tôi đã thấy Ngài:
6 Vì vậy, tôi lấy làm gớm-ghê tôi,
Và ăn-năn trong tro bụi.

7 Xảy sau khi Đức Giê-hô-va đã phán các lời ấy với Gióp, thì Ngài phán cùng Ê-li-pha, người Thê-man, mà rằng:

Cơn thạnh-nộ ta nổi lên cùng ngươi và hai bạn-hữu ngươi; bởi vì các ngươi không có nói về ta cách xứng-đáng, y như Gióp, kẻ tôi-tớ ta, đã nói. 8 Vậy bây giờ, hãy bắt bảy con bò đực và bảy con chiên đực đi đến Gióp, kẻ tôi-tớ ta, mà vì các ngươi dâng lên một của-lễ thiêu; rồi Gióp, kẻ tôi-tớ ta, sẽ cầu-nguyện cho các ngươi; vì ta sẽ nhậm lời người, kẻo e ta đãi các ngươi tùy theo sự ngu-muội của các ngươi; vì các ngươi không có nói về ta cách xứng-đáng, như Gióp, kẻ tôi-tớ ta, đã nói.

9 Vậy, Ê-li-pha, người Thê-man, Binh-đát, người Su-a, Sô-pha, người Na-a-ma, bèn đi và làm theo đều Đức Giê-hô-va đã phán dặn mình; rồi Đức Giê-hô-va nhậm lời của Gióp.

10 Vậy, khi Gióp đã cầu-nguyện cho bạn-hữu mình rồi, Đức Giê-hô-va bèn đem người ra khỏi cảnh khốn người, và ban lại cho Gióp gấp bằng hai các tài-sản mà người đã có trước. 11 Hết thảy anh em người, chị em người, và những người quen-biết Gióp từ trước, đều đến thăm và ăn bữa với người tại trong nhà người. Chúng chia buồn và an-ủy người về các tai-họa mà Đức Giê-hô-va đã khiến giáng trên người; mỗi người đều cho Gióp một nén bạc và một cái vòng vàng.

12 Như vậy, Đức Giê-hô-va ban phước cho buổi già của Gióp nhiều hơn lúc đang-thì: người được mười bốn ngàn chiên, sáu ngàn lạc-đà, một ngàn đôi bò, và một ngàn lừa cái. 13 Người cũng có bảy con trai và ba con gái. 14 Người đặt tên cho con gái lớn là Giê-mi-ma (Nghĩa là: Chim bò-câu.); con thứ nhì là Kê-xia (Nghĩa là: Hương-thơm.), và con thứ ba là Kê-ren-Ha-búc (Nghĩa là: Hợp phấn diệp.)15 Trong toàn xứ chẳng có người nữ nào lịch-sự bằng ba con gái của Gióp. Cha của họ cho họ một phần cơ-nghiệp trong anh em họ.

16 Sau việc ấy, Gióp còn sống một trăm bốn mươi năm; người thấy các con trai, cháu, chít mình đến đời thứ tư. 17 Rồi Gióp qua đời tuổi cao tác lớn.

Ngay cả trong kiệt tác văn học này, người ta không tìm thấy tất cả các câu trả lời mà mình có thể mong muốn. Nhưng chính điều đó là một phần của những gì Gióp đã học được. Trong cuộc đời này con người sẽ không bao giờ biết tất cả sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời, và ở một số khía cạnh thậm chí không ở vị thế để đặt câu hỏi “Tại sao?” Nhưng một số điều được làm rõ từ sự đối đầu của Gióp. Thứ nhất, mặc dù không phải lúc nào cũng dễ thấy, kẻ ác sẽ một ngày nào đó bị phán xét. Thứ hai, quan niệm rằng đau khổ luôn là kết quả của tội lỗi bị phá hủy hoàn toàn. Và cuối cùng, con người không ở vị thế để biện minh cho tình huống của mình bằng cách buộc tội Đức Chúa Trời bất công.

Như chính Gióp chỉ ra, những điểm tinh tế thần học này không có khả năng ngăn được nước mắt của người đang héo hon trong cảnh tù đày, hoặc chịu đau khổ bức hại, hoặc đau đớn vì một căn bệnh tàn khốc. Nhưng chúng thách thức dân Đức Chúa Trời trong lưu đầy nhận ra với lòng khiêm nhường quyền tối cao của Đức Chúa Trời, và tin tưởng rằng trong sự khôn ngoan của Ngài thực sự có một thời gian và mục đích cho tất cả mọi thứ, bao gồm nghịch cảnh và đau khổ. Dù có rõ ràng hay không, Đức Chúa Trời đang hoạt động trong cuộc đời của mỗi cá nhân, cũng như trong cuộc đời của các dân tộc, để đưa dân Ngài vào mối quan hệ gần gũi hơn với Ngài, và qua đó vào sự hài hòa lớn hơn trong chính họ và với nhau.