Binh-đát luận rằng loài người chẳng đáng xưng mình là công-bình trước mặt Đức Chúa Trời
25 1 Binh-đát, người Su-a, bèn đáp rằng:
2 Quyền quản-trị và sự sợ-hãi thuộc về Chúa:
Ngài khiến hòa-bình trong các nơi cao của Ngài.
3 Ai cai được số của đạo-binh Chúa?
Có ai mà ánh-sáng Ngài không chói đến sao?
4 Làm sao loài người được công-bình trước mặt Đức Chúa Trời?
Kẻ nào bị người nữ sanh ra, sao cho là trong-sạch được?
5 Kìa, mặt trăng không chiếu sáng,
Các ngôi sao chẳng tinh-sạch tại trước mặt Ngài thay:
6 Phương chi loài người vốn giống như con sâu,
Và con-cái loài người giống như một con giòi-bọ!
Gióp tôn-trọng sự quyền-năng và khôn-ngoan của Đức Chúa Trời
26 1 Gióp cất tiếng đáp rằng:
2 Ngươi đã phù-trợ kẻ không quyền dường nào!
Tiếp-cứu cánh tay chẳng sức-lực,
3 Khuyên-luận kẻ vô-tri,
Và tỏ biết-bao sự khôn-sáng chơn-thật!
4 Người đã giảng-luận cho ai?
Linh-hồn của ai bởi ngươi mà ra?
5 Kẻ qua đời run-rảy
Dưới nước lớn, và muôn vật ở đó cũng vậy.
6 Âm-phủ bày-lộ ra trước mặt Đức Chúa Trời,
Và vực sâu không màn che khuất,
7 Chúa trải bắc cực ra trên vùng trống,
Treo trái đất trong khoảng không-không.
8 Ngài ém nước trong các áng mây Ngài,
Mà áng mây không bứt ra vì nước ấy.
9 Ngài che khuất bề mặt của ngai Ngài,
Và trải mây Ngài ở trên nó.
10 Ngài đã vẽ một vòng tròn trên mặt nước,
Cho đến nơi giới-cực của ánh-sáng và tối-tăm giáp nhau.
11 Những trụ của các từng trời rúng-động,
Và sững-sờ khi Đức Chúa Trời hăm-dọa.
12 Ngài lấy quyền-năng mình mà khiến biển dậy lên,
Và nhờ sự khôn-ngoan mình mà đánh vỡ Ra-háp.
13 Thần Chúa điểm-trang các từng trời;
Tay Chúa đấm lũng rắn thoảng qua lẹ.
14 Kìa, ấy chỉ là biên-giới của các đường-lối Ngài;
Ta được nghe tiếng nói về Chúa xằm-xì nhỏ thay!
Nhưng ai hiểu rõ tiếng sấm của quyền-năng Ngài?
Gióp quả-quyết rằng kẻ ác thường không bị phạt. Người bày-tỏ sự cuối-cùng buồn-thảm của họ
27 1 Gióp tiếp nói lẽ luận cao mình, mà rằng:
2 Đức Chúa Trời đã đoạt lấy lý tôi,
Đấng Toàn-năng khiến linh-hồn tôi bị cay-đắng,
Tôi chỉ sanh-mạng của Ngài mà thề rằng:
3 Hễ hơi-thở tôi còn ở mình tôi,
Và sanh-khí của Đức Chúa Trời còn trong lỗ mũi tôi,
4 Quả hẳn môi tôi sẽ chẳng nói sự gian-ác,
Lưỡi tôi cũng không giảng ra đều giả-dối.
5 Khi tôi đoán-xét, không thể nào cho các bạn là phải!
Cho đến kỳ chết, tôi chẳng hề thôi quả-quyết rằng tôi trọn-vẹn.
6 Tôi giữ chặt sự công-bình mình, không rời bỏ nó;
Trọn đời tôi, lòng tôi sẽ chẳng cáo trách tôi.
7 Ước gì cừu-địch tôi bị xử như kẻ ác,
Và kẻ dấy lên nghịch cùng tôi bị cầm như kẻ trái lẽ công-bình.
8 Dẫu kẻ ác được tài-sản, Đức Chúa Trời cất lấy linh-hồn nó đi;
Vậy, sự trông-cậy kẻ ác là gì?
9 Khi sự hoạn-nạn xảy đến cùng hắn,
Đức Chúa Trời há sẽ nghe tiếng của hắn sao?
10 Có phải hắn sẽ tìm được sự vui-sướng mình nơi Đấng Toàn-năng,
Và thường thường cầu-khẩn Đức Chúa Trời sao?
11 Tôi sẽ chỉ dạy cho các bạn việc tay Đức Chúa Trời làm,
Không giấu các bạn ý của Đấng Toàn-năng.
12 Nầy, chánh các bạn đã thấy đều đó,
Vậy, nhân sao còn có những tư-tưởng hư-không kia?
13 Nầy là phần mà Đức Chúa Trời định cho kẻ ác,
Và cơ-nghiệp của kẻ cường-bạo nhận-lãnh từ Đấng Toàn-năng:
14 Nếu con-cái hắn thêm nhiều, ấy để cho gươm giết;
Còn dòng-dõi hắn ắt không ăn cho no-nê được.
15 Kẻ còn sống sót lại của hắn bị sự chết vùi-dập,
Và người góa-bụa hắn sẽ không than-khóc.
16 Dẫu hắn có thâu góp bạc tiền như cát-bụi,
Sắm-sửa quần-áo nhiều như bùn;
17 Thật hắn sắm-sửa, song rồi ra người công-bình sẽ mặc lấy,
Còn bạc, kẻ vô-tội sẽ chia nhau.
18 Người cất nhà mình như ổ sâu-trùng,
Như chòi mà người giữ vườn nho thường cất.
19 Hắn nằm xuống giàu-có, song sẽ chẳng được liệm;
Nó mở con mắt ra, bèn chẳng còn nữa.
20 Sự kinh-khiếp thình-lình áp vào hắn như thể nước lụt;
Bão-tố đoạt lấy hắn trong lúc ban đêm.
21 Gió đông đem hắn đi; bèn biệt mất;
Một luồng dông lớn rứt hắn đi khỏi chỗ hắn.
22 Đức Chúa Trời giáng tai-vạ trên mình hắn, chẳng thương-xót lấy;
Hắn rất muốn chạy trốn khỏi tay Ngài.
23 Người ta sẽ vỗ tay mừng về việc hắn;
Và hút gió đuổi hắn khỏi chỗ ở của hắn.
Gióp tỏ ra rằng chỉ một mình Đức Chúa Trời có sự khôn-ngoan để giải-nghĩa các việc
28 1 Bạc có mỏ để người ta đào lấy nó,
Và vàng có nơi người ta luyện nó.
2 Sắt từ nơi đất lấy ra,
Đá đúc chảy ra mà lấy được đồng.
3 Loài người làm tan tăm-tối,
Dò-xét đến cùng-tột,
Hòn đá ở nơi âm-ẩm tối-tăm đen-kịch.
4 Người ta đào mỏ xa chỗ loài người ở trên thế,
Tại trong nơi vắng-vẻ không chơn người đi đến;
Chúng bị treo và đòng-đưa xa cách loài người,
5 Đất sanh ra lương-thực,
Còn ở bên dưới nó dường như bị lửa xao-lộn.
6 Các đá nó là chỗ có ngọc-bích,
Người ta tìm được mạt vàng tại đó.
7 Chim ăn mồi chẳng biết đường-lối nầy;
Mắt chim ưng không tìm nó ra được;
8 Thú dữ không hề bước trên nó,
Sư-tử chẳng có đi ngang qua đó.
9 Loài người tra tay trên hòn đá cứng,
Đánh đổ các núi từ nơi nền của nó.
10 Người đục hang trong hòn đá,
Mắt nó tìm được mọi bửu-vật ở trong.
11 Người ngăn nước sông để chẳng rịnh ra;
Đem ra sáng đều chi ẩn-bí.
12 Còn sự khôn-ngoan tìm được ở đâu?
Tại nơi nào có sự thông-sáng?
13 Người ta chẳng biết được giá-trị nó;
Nó không ở tại trên đất của loài sống.
14 Vực sâu rằng: Nó chẳng có trong tôi,
Và biển rằng: Nó không ở cùng tôi.
15 Chẳng dùng vàng ròng đổi lấy nó đặng,
Cũng không hề cân bạc mà mua được nó.
16 Người ta không đánh giá nó với vàng Ô-phia,
Hoặc với ngọc hồng mã-não hay là với ngọc-bích.
17 Chẳng sánh nó được với vàng hay là pha-lê,
Cũng không đổi nó để lấy khí-dụng bằng vàng ròng.
18 Còn san-hồ và thủy-tinh, thì chẳng cần nói đến;
Giá-trị sự khôn-ngoan thật cao hơn châu-báu.
19 Ngọc sắc vàng Ê-thi-ô-bi nào sánh cùng nó được đâu;
Cũng không hề đánh giá nó với vàng ròng.
20 Vậy thì sự khôn-ngoan ở đâu đến?
Sự thông-sáng ở tại nơi nào?
21 Nó vẫn giấu khuất mắt các loài sống,
Và tránh ẩn các chim trời.
22 Chốn trầm-luân và sự chết nói rằng:
Lỗ tai chúng tôi có nghe tiếng đồn về nó.
23 Đức Chúa Trời thông-hiểu con đường nó,
Và rõ biết chỗ-ở của nó.
24 Vì Ngài nhìn thấu tận các đầu thế-gian,
Và thấy rõ khắp thiên-hạ.
25 Khi Ngài định sức nặng cho gió,
Độ-lượng cho các nước,
26 Định luật-lệ cho mưa,
Và lập đường-lối cho chớp và sấm.
27 Bấy giờ Ngài thấy sự khôn-ngoan, và bày-tỏ nó ra,
Ngài lập nó và dò-xét nó nữa;
28 Đoạn, phán với loài người rằng: Kính-sợ Chúa, ấy là sự khôn-ngoan;
Tránh khỏi đều ác, ấy là sự thông-sáng.
Gióp so-sánh sự hưng-thạnh mình khi trước với tai-nạn mình ngày nay
29 1 Gióp cứ nói lẽ luận cao mình, mà rằng:
2 Ôi! Ước gì tôi được như buổi trước,
Như trong các ngày mà Đức Chúa Trời gìn-giữ tôi;
3 Khi ngọn đuốc Chúa soi trên đầu tôi,
Và nhờ ánh-sáng Ngài, tôi bước qua sự tối-tăm.
4 Chớ chi tôi được như lúc còn tráng-kiện,
Khi tình thiệt-hữu của Đức Chúa Trời còn đoái đến trại tôi;
5 Khi Đấng Toàn-năng còn ở cùng tôi,
Và các con-cái tôi vây quanh tôi;
6 Lúc tôi rửa chơn trong sữa,
Và hòn đá phun suối dầu ra cho tôi!
7 Khi tôi đi ra đến cửa thành,
Sửa-soạn chỗ ngồi mình tại phố chợ,
8 Các gã trai-trẻ thấy tôi bèn ẩn đi,
Và các người già-cả đều chổi-dậy và đứng;
9 Những quan-trưởng kiêng nói,
Và lấy tay bụm miệng;
10 Tiếng người tước-vị nín-thinh,
Và lưỡi họ dính nơi ổ-gà.
11 Khi tai ai nghe tôi, bèn xưng tôi có phước,
Mắt ai thấy tôi, bèn làm chứng cho tôi.
12 Ấy vì tôi giải-cứu kể khốn-cùng kêu-cầu,
Và kẻ mồ-côi không ai giúp-đỡ.
13 Kẻ gần chết chúc phước cho tôi,
Và tôi làm cho lòng người góa-bụa nức-nở vui-mừng.
14 Tôi mặc lấy sự công-bình, và nó che-phủ tôi,
Sự ngay-thẳng tôi khác nào áo ngoài và mão triều-thiên.
15 Tôi đã như con mắt cho kẻ mù,
Và như chơn cho kẻ què.
16 Tôi đã làm cha cho kẻ nghèo khó,
Còn duyên-cớ của kẻ lạ, tôi tra-xét cho rõ-ràng.
17 Tôi bẻ gẫy hàm kẻ bất-công,
Và rứt mồi nó ngậm nơi răng.
18 Tôi bèn nói rằng: Ta sẽ thác trong ổ của ta;
Ngày ta sẽ nhiều như hột cát;
19 Rễ ta bò ăn dài theo nước,
Và cả đêm sương đọng trên nhành ta.
20 Vinh-hiển ta mới-mẻ với ta luôn,
Cung ta được cứng-mạnh lại trong tay ta.
21 Người ta lắng tai nghe tôi, chờ đợi,
Và làm thinh đặng nghe lời tôi bàn.
22 Sau khi tôi nói, chúng không còn đáp lại;
Lời tôi nói gội-nhuần trên chúng (như sương).
23 Họ trông-đợi tôi như trông-đợi mưa,
Hả miệng ra dường như hứng mưa muộn.
24 Tôi mỉn cười với chúng, khi chúng bị ngã lòng;
Họ chẳng hề làm rối nét mặt bình-tịnh tôi được.
25 Tôi chọn con đường cho chúng, và ngồi làm đầu họ,
Ở như vua tại giữa quân-đội,
Khác nào một kẻ an-ủy những người sầu.
30 1 Song bây giờ, kẻ trẻ tuổi hơn tôi nhạo-báng tôi,
Mà cha họ tôi đã khinh, chẳng khứng để
Chung với chó của bầy chiên tôi.
2 Sức-mạnh của họ đã hư-bại rồi;
Vậy, sức-lực tay họ dùng làm ích gì cho tôi?
3 Chúng ốm-tong vì bị đói-kém thiếu-thốn,
Đi gậm cạp đất khô-hóc,
Từ lâu đã bỏ-hoang vắng-vẻ.
4 Chúng hái rau sam biển trong bụi cây,
Rễ cây giêng-giếng làm vật-thực cho họ.
5 Chúng bị đuổi đi khỏi giữa loài người;
Người ta kêu-la chúng như kêu-la kẻ trộm.
6 Chúng phải ở trong trũng gớm-ghê,
Trong hang đất và giữa các hòn đá.
7 Chúng tru-thét giữa bụi cây,
Nằm lộn-lạo nhau dưới các lùm gai.
8 Chúng là con-cái kẻ ngu-xuẩn, cha họ chẳng tuổi tên,
Họ bị đuổi ra khỏi xứ.
9 Còn bây giờ, tôi trở nên lời ca-hát của họ,
Làm đề cho chuyện-trò của họ.
10 Họ gớm-ghiếc tôi, xa lánh tôi,
Không kiêng nhổ khạc nơi mặt tôi.
11 Bởi vì Đức Chúa Trời đã làm dùn dây cung tôi, và sỉ-nhục tôi.
Chúng ném hàm-khớp khỏi trước mặt tôi.
12 Cái nố lu-la nầy dấy lên nơi tay hữu tôi;
Chúng xô đẩy chơn tôi,
Sửa-soạn cho tôi con đường hiểm-độc của chúng.
13 Chúng phá-hủy đường-lối tôi,
Giúp vào việc tàn-hại tôi;
Song chẳng có ai đến tiếp-cứu chúng.
14 Chúng do nơi hư-lũng lớn mà đến,
Xông vào tôi giữa sự đồi-tàn.
15 Các sự kinh-khủng hãm-áp tôi,
Đuổi theo sự sang-trọng tôi khác nào gió mạnh,
Và sự phước-hạnh tôi đã qua như đám mây.
16 Bây giờ, linh-hồn tôi tan ra trong mình tôi;
Các ngày gian-nan đã hãm bắt tôi,
17 Đêm soi xương-cốt tôi làm nó rời ra khỏi tôi,
Đau-đớn vẫn cắn-rỉa tôi, không ngưng-nghỉ chút nào.
18 Vì cớ năng-lực lớn của Đức Chúa Trời, áo ngoài tôi hư-nát;
Năng-lực ấy riết-khít tôi lại như cổ áo tôi.
19 Đức Chúa Trời có ném tôi xuống bùn,
Tôi trở nên giống như bụi và tro.
20 Tôi kêu-la cùng Chúa, song Chúa chẳng đáp lời;
Tôi đứng tại đó, và Chúa chỉ ngó xem tôi.
21 Chúa trở nên dữ-tợn đối với tôi,
Lấy năng-lực tay Chúa mà rượt-đuổi tôi.
22 Chúa cất tôi lên trên cánh gió,
Khiến nó đem tôi đi, và tiêu-diệt tôi giữa trận bão.
23 Vì tôi biết rằng Chúa sẽ dẫn tôi đến chốn sự chết,
Là nơi hò-hẹn của các người sống.
24 Song trong khi người nào bị tàn-hại, họ há chẳng giơ tay ra sao?
Hoặc đương cơn tai-nạn, họ há không cất tiếng kêu-la ư?
25 Chớ thì tôi không khóc kẻ bị thời-thế khó-khăn sao?
Lòng tôi há chẳng buồn-thảm vì kẻ nghèo-khổ sao?
26 Tôi đợi-chờ phước-hạnh, tai-họa bèn xảy đến;
Tôi trông-cậy ánh-sáng, tăm-tối lại tới cho.
27 Lòng tôi trằn-trọc không an-nghỉ;
Các ngày gian-nan xông áp vào tôi.
28 Tôi đi mình-mảy bằm đen (Bịnh của Gióp bị làm cho da người đều đen cả.), nhưng chẳng phải bị nắng ăn;
Tôi chổi-dậy giữa hội-chúng và kêu-cầu tiếp-cứu.
29 Tôi bèn trở thành anh em của chó rừng,
Và bầu-bạn của con đà-điểu.
30 Da tôi thành đen và rơi ra khỏi mình,
Xương-cốt tôi bị nóng cháy đi.
31 Vì cớ ấy, tiếng đờn-cầm tôi trở nên tiếng ai-bi,
Và đờn-sắt tôi chỉ ra tiếng thảm-sầu.
Gióp làm chứng về tánh-hạnh mình khi trước là trọn-vẹn
31 1 Tôi đã có lập ước với mắt tôi;
Vậy, làm sao tôi còn dám nhìn người nữ đồng-trinh?
2 Vì phần do Đức Chúa Trời ở trên trời,
Và cơ-nghiệp do Đấng Toàn-năng ở nơi cao, là đí gì?
3 Há chẳng phải sự tai-họa cho kẻ gian-ác,
Và sự hư-hại cho kẻ làm dữ sao?
4 Chớ thì Đức Chúa Trời chẳng thấy đường-lối tôi,
Và đếm các bước tôi sao?
5 Nếu tôi có ăn-ở cách dối-trá,
Và chơn tôi vội-vàng theo chước gian-giảo,
6 Nguyện Đức Chúa Trời cân tôi trên cân thăng-bằng,
Thì Ngài sẽ nhìn-biết sự thanh-liêm của tôi.
7 Nếu chơn tôi trở bước bỏ đường chánh-đáng,
Và lòng tôi đi theo con mắt tôi,
Nếu có sự ô-uế chi dính vào tay tôi,
8 Nguyện tôi gieo, và có kẻ khác gặt hái,
Nguyện thổ-sản tôi bị nhổ đi!
9 Nếu lòng tôi bị người nữ quyến-dụ,
Nếu tôi rình-rập ở nơi cửa của lân-cận tôi,
10 Nguyện vợ tôi xây cối cho người khác,
Và có kẻ khác nằm cùng nàng.
11 Vì đều ấy vốn tội trọng gớm-ghê,
Một tội-ác đáng bị quan-xét đoán-phạt:
12 Tội ấy là một ngọn lửa thiêu-hóa cho đến chốn trầm-luân,
Tàn-hại các của-cải tôi đến tận-cùng…..
13 Nếu tôi có khinh duyên-cớ của tôi trai tớ gái tôi,
Lúc chúng nó tranh-luận với tôi,
14 Thì tôi sẽ làm sao khi Đức Chúa Trời chổi-dậy?
Khi Ngài đến thẩm-sát tôi, tôi sẽ đáp sao?
15 Đấng đã tạo-thành tôi trong lòng mẹ tôi,
Há chẳng có dựng nên chúng nó sao?
Há chẳng phải cũng một Đức Chúa Trời dựng nên chúng ta trong lòng mẹ sao?…
16 Nếu tôi từ-chối đều kẻ nghèo-khổ ước-ao,
Gây cho mắt người góa-bụa bị hao-mòn,
17 Nếu tôi có ăn bánh tôi một mình,
Và kẻ mồ-côi chẳng có được ăn với; —
18 Thật từ lúc tôi còn trẻ, nó cùng lớn lên với tôi như con với cha;
Còn người góa-bụa, tôi đã nâng-đỡ từ khi tôi lọt lòng mẹ tôi;….
19 Nếu tôi có thấy người nào thác vì không quần-áo,
Và kẻ nghèo-thiếu chẳng có mền;
20 Nếu lòng người không chúc phước cho tôi,
Và người không nhờ lông chiên tôi mà được ấm-áp;
21 Nếu tôi có giơ tay hiếp kẻ mồ-côi,
Bởi vì tôi thấy có kẻ phù-trợ tôi trong cửa thành;
22 Nguyện cho vai tôi rớt ra khoi nơi khác,
Và cánh tay tôi bị gẫy rứt ra đi!
23 Vì sự tai-họa từ Đức Chúa Trời giáng xuống làm tôi kinh-khiếp,
Và trước mặt sự oai-nghiêm Ngài, Tôi nào làm chi được…..
24 Nếu tôi có để lòng tin-cậy nơi vàng,
Và nói với vàng ròng rằng: Ngươi là sự nương-nhờ của ta;
25 Nếu tôi vui-mừng về tài-vật tôi nhiều,
Và vì tay tôi đã được lắm của;
26 Nếu tôi có thấy mặt trời chiếu sáng,
Và mặt trăng mọc lên soi tỏ,
27 Nếu lòng tôi có thầm mê-hoặc,
Và miệng tôi hôn gởi tay tôi;
28 Đều đó cũng là một tội-ác đáng bị quan-xét phạt;
Vì nếu làm vậy, tôi đã từ-chối Đức Chúa Trời trên cao kia…..
29 Nếu tôi có vui-mừng vì cớ tàn-hại kẻ ghét tôi,
Và hứng lòng khi tai-vạ giáng cho nó; —
30 Trái lại tôi không cho phép miệng tôi phạm tội,
Mà lấy sự rủa-sả trù-ẻo, nguyện hại mạng-sống nó;…..
31 Nếu các người nhà tôi chẳng có nói:
« Ai sẽ tìm được người nào không được ăn no-nê thịt súc-vật người? » —
32 Người lạ không có ngủ đêm ở ngoài đường;
Tôi mở cửa cho kẻ hành-khách;…
33 Nếu tôi có che tội mình như A-đam,
Mà giấu sự gian-ác mình ở trong lòng,
34 Tại vì tôi kinh-hãi chúng đông,
Và e sợ bị họ-hàng khinh-bỉ,
Đến đỗi ở yên-lặng, chẳng dám bước ra khỏi cửa…..
35 Ôi! Chớ chi có một người nghe tôi!
Nầy là dấu-hiệu tôi ký. Nguyện Đấng Toàn-năng đáp lời tôi;
Nguyện kẻ cừu-địch tôi làm một trạng-từ!
36 Tôi quả-hẳn sẽ mang trạng-từ ấy trên vai mình,
Đội nó trên đầu tôi như một mão triều-thiên.
37 Ắt tôi sẽ thuật cho cừu-địch biết số bước tôi,
Đến trước mặt nó như một vua-chúa…..
38 Nếu đất tôi kêu cáo tôi,
Các giòng cày nó khóc với nhau;
39 Nếu tôi ăn sản-vật nó mà không trả giá bạc,
Làm khuấy-khuất nguyên-chủ nó cho đến phải chết mất;
40 Nguyện gai-góc mọc thay lúa miến,
Và cỏ lùng thế cho lúa mạch!
Đến đây hết lời của Gióp.