Những năm cuối đời của triều đại Ê-xê-chia
Ê-xê-chia chắc chắn đã thực sự được Chúa ban ơn nhờ những cải cách thờ phượng trước đó của ông ở Giu-đa, vì khi đến lúc ông phải chết, lời cầu nguyện của ông cho sự sống lâu hơn đã được đáp ứng bằng việc gia hạn thêm 15 năm. Ngay cả cử chỉ bất thường nhất ấy cũng được xác nhận bởi một phép lạ khác không kém phần kỳ diệu: Chúa làm bóng mặt trời lùi lại trên đồng hồ mặt trời kiểu cầu thang.
Trong 15 năm cuối đời của Ê-xê-chia, ông buộc phải trong một thời gian nộp cống cho San-chê-ríp, trước khi Chúa gây ra cái chết của hàng nghìn quân A-si-ri cách kỳ diệu và buộc San-chê-ríp phải trở về nhà trong sự nhục nhã. Tuy nhiên, ngay cả khi mối đe dọa A-si-ri giảm bớt, một cuộc viếng thăm của các sứ giả Ba-by-lôn báo hiệu rắc rối mới cho Giu-đa từ quốc gia ngày càng hùng mạnh đó.
Sự dân A-si-ri loán vào
(2 Các vua) 18 13 Năm thứ mười bốn đời Ê-xê-chia, San-chê-ríp, vua A-si-ri, đến đánh các thành kiên-cố của Giu-đa và hãm lấy nó. 14 Ê-xê-chia, vua Giu-đa, sai sứ đến La-ki nói với vua A-si-ri rằng: Tôi phạm lỗi. Cầu vua lìa khỏi nước tôi; hễ vua đòi tôi đều gì, tôi sẽ chịu. Vua A-si-ri bắt Ê-xê-chia, vua Giu-đa, phải trả ba trăm ta-lâng bạc, và ba mươi ta-lâng vàng. 15 Ê-xê-chia nộp cho người các bạc ở trong đền Đức Giê-hô-va và trong kho-tàng của cung vua. 16 Bấy giờ, Ê-xê-chia gỡ vàng của các cửa và cột đền-thờ Đức Giê-hô-va mà chính mình người đã cẩn vào, rồi nộp hết cho vua A-si-ri.
Ê-xê-chia bị bịnh, rồi đặng chữa lành
20 1 Trong lúc đó, Ê-xê-chia bị bịnh nặng gần chết. Tiên-tri Ê sai, con trai A-mốt, đến cùng người, và nói rằng: Đức Giê-hô-va phán như vầy: Hãy trối lại cho nhà ngươi, vì ngươi sẽ thác, chẳng sống được đâu. 2 Ê-xê-chia bèn xây mặt mình vào phía vách, và cầu-nguyện Đức Giê-hô-va, mà rằng: 3 Ôi Đức Giê-hô-va! xin hãy nhớ lại rằng tôi đã lấy sự thành-thật và lòng trọn-lành, đi trước mặt Chúa, và làm theo đều tốt-lành tại trước mặt Ngài. Đoạn, Ê-xê-chia khóc rất thảm-thiết.
4 Ê-sai chưa đi khỏi thành trong, có lời của Đức Giê-hô-va phán với người rằng: 5 Hãy trở lại, nói với Ê-xê-chia, vua của dân-sự ta rằng: Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Đa-vít, tổ-phụ ngươi, phán như vầy: Ta có nghe lời cầu-nguyện ngươi, thấy nước mắt của ngươi; nầy ta sẽ chữa lành cho ngươi; đến ngày thứ ba ngươi sẽ đi lên đền của Đức Giê-hô-va. 6 Ta sẽ thêm tuổi ngươi mười lăm năm, ta sẽ giải-cứu ngươi và thành nầy khỏi tay vua A-si-ri. Vì cớ ta và Đa-vít, kẻ tôi-tớ ta, ta sẽ binh-vực thành nầy.
7 Ê-sai bèn biểu: Hãy lấy một cái bánh trái vả. Người ta lấy nó đắp trên mụt ung, thì vua được lành. 8 Vả, Ê-xê-chia đã hỏi Ê-sai rằng: Bởi dấu nào tôi phải nhìn rằng Đức Giê-hô-va sẽ chữa lành cho tôi và đến ngày thứ ba tôi sẽ được đi lên đền của Ngài? 9 Ê-sai đáp: Nầy là dấu Đức Giê-hô-va ban cho ngươi, đặng làm chứng cho ngươi biết Ngài sẽ làm thành đều Ngài đã phán ra: Ngươi muốn bóng tới trước mười độ hay là lui lại mười độ chăng? 10 Ê-xê-chia đáp: Bóng tới trước mười độ thì chẳng khó gì; không! thà nó lui lại sau mười độ thì hơn. 11 Thầy tiên-tri Ê-sai cầu-khẩn Đức Giê-hô-va, Ngài bèn đem bóng đã giọi trên trắc-ảnh A-cha lui lại mười độ, là mười độ đã xuống rồi.
Ê-xê-chia đau và được lành. — Bài ca-tụng của vua ấy
(Ê-sai) 38 9 Nầy là lời chép của Ê-xê-chia, vua Giu-đa, khi đã lâm bịnh và được lành bịnh:
10 Tôi từng nói: Vậy thì, đương khi giữa trưa của đời tôi, tôi hầu vào cửa Âm-phủ, còn mấy năm thừa bị cất mất! 11 Tôi từng nói: Tôi sẽ chẳng thấy Đức Giê-hô-va nữa, là Đức Giê-hô-va ở trên đất người sống. Tôi chẳng còn thấy loài người ở cùng dân-cư thế-gian. 12 Nhà của tôi bị triệt đi, dời xa khỏi tôi như cái trại của người chăn chiên. Tôi cuốn đời tôi như thợ dệt cuốn vải nó; Chúa sẽ cắt tôi khỏi khung-cửi; từ sáng đến tối, Chúa sẽ dứt mạng-sống tôi!
13 Tôi làm thinh cho đến sáng mai: như Ngài đã xé cả xương tôi như sư-tử vậy. Từ sáng đến tối, Chúa sẽ dứt mạng-sống tôi! 14 Tôi rầm-rì như chim hạc chim yến; gù như chim bò-câu; mắt tôi nhìn trên cao nên nỗi mỏi. Hỡi Đức Giê-hô-va, tôi đương cơn sầu-khổ, xin Ngài bảo-lãnh tôi!
15 Tôi còn nói gì? Ngài đã phán cùng tôi thì Ngài cũng đã làm thành việc nầy. Trọn đời tôi sẽ ăn-ở cách khiêm-nhường vì cớ trong lòng cay-đắng. 16 Hỡi Chúa, người ta được sống là nhờ đó; thần-linh tôi được sống cũng nhờ đó! Xin Chúa chữa lành tôi, khiến tôi được sống. 17 Nầy, sự rất cay-đắng của tôi đã trở nên sự bình-an! Chúa đã yêu-thương linh-hồn tôi, đem nó ra khỏi hầm hư-nát; vì Chúa đã ném mọi tội-lỗi tôi ra sau lưng Ngài.
18 Nơi Âm-phủ chẳng ngợi-khen Ngài được, và sự chết chẳng tôn-vinh Ngài được; những kẻ đã xuống mồ rồi chẳng còn trông-cậy sự thành-thật của Ngài nữa. 19 Duy kẻ sống, kẻ sống mới hay tôn-vinh Ngài, như tôi làm ngày nay; kẻ làm cha sẽ cho con-cái mình biết sự thành-thật của Ngài. 20 Đức Giê-hô-va là Đấng cứu tôi! Trọn đời chúng tôi sẽ đờn và hát trong nhà Đức Giê-hô-va!
(2 Sử ký) 32 25 Nhưng Ê-xê-chia chẳng báo đáp lại ơn Chúa mà người đã lãnh, vì lòng người tự-cao; bèn có cơn thạnh-nộ của Chúa nổi lên cùng người, cùng Giu-đa và Giê-ru-sa-lem. 26 Song Ê-xê-chia hạ sự tự-cao trong lòng mình xuống, người và dân-cư Giê-ru-sa-lem cũng vậy, nên trong đời Ê-xê-chia, cơn thạnh-nộ của Đức Giê-hô-va không giáng trên chúng.
27 Ê-xê-chia được rất giàu rất sang; người cất những kho để trử bạc, vàng, đá quí, thuốc thơm, khiên, và các thứ khí-giới tốt đẹp; 28 những lẫm đặng chứa ngũ-cốc, rượu, và dầu; những chuồng để nhốt các thứ thú-vật, bầy chiên, và bầy bò. 29 Người cũng xây những thành, có nhiều bầy chiên và bò; vì Đức Chúa Trời ban cho người rất nhiều của-cải. 30 Ấy là Ê-xê-chia nầy lấp nguồn trên của nước Ghi-hôn, và dẫn nó chảy ngầm dưới đất qua phía tây của thành Đa-vít. Trong mọi việc Ê-xê-chia được hanh-thông.
Một sứ-giả ở Ba-by-lôn đến
(2 Các vua) 20 12 Trong lúc đó, Bê-rô-đác-Ba-la-đan, con trai Ba-la-đan, vua Ba-by-lôn, gởi thơ và lễ-vật cho Ê-xê-chia; vì người đã hay rằng Ê-xê-chia đau. 13 Ê-xê-chia nghe lời các sứ-giả tâu, thì vui-mừng, bèn dẫn chúng viếng đền, là nơi chứa các vật quí, bạc, vàng, thuốc-thơm, dầu quí, lại cho xem trại cơ-khí, và mọi vật trong kho-tàng mình. Chẳng có chi trong đền hoặc trong nước mà Ê-xê-chia không cho chúng xem thấy.
14 Tiên-tri Ê-sai bèn đi đến vua Ê-xê-chia, và hỏi người rằng: Các người đó nói chi và ở xứ nào đến? Ê-xê-chia đáp: Chúng đến từ xứ xa, từ Ba-by-lôn. 15 Ê-sai tiếp: Vua cho chúng xem chi trong đền của vua? Ê-xê-chia đáp: Chúng có thấy mọi vật ở trong đền ta. Chẳng gì trong các kho-tàng ta mà ta chẳng chỉ cho chúng xem. 16 Ê-sai bèn nói với Ê-xê-chia rằng: Hãy nghe lời của Đức Giê-hô-va: 17 Thì-giờ sẽ đến khi mọi vật ở trong đền vua, mọi vật mà các tổ-phụ vua đã chất-chứa trong kho-tàng cho đến ngày nay, đều sẽ bị đem qua Ba-by-lôn. Đức Giê-hô-va phán: Sẽ chẳng còn chi lại hết. 18 Lại, những đứa con trai của vua, do nơi vua sanh ra, sẽ bị bắt dẫn đi làm hoạn-quan trong đền vua Ba-by-lôn. 19 Ê-xê-chia đáp với Ê-sai rằng: Lời của Đức Giê-hô-va mà người đã nói là thiện. Người tiếp: Ít nữa trong đời tôi sẽ có đều bình-yên và sự vững-vàng chăng?
(2 Sử ký) 32 31 Song khi sứ-giả mà vua Ba-by-lôn sai đến người đặng hỏi-thăm dấu lạ đã xảy ra trong xứ, thì Đức Chúa Trời tạm lìa-bỏ người đặng thử người, để cho biết mọi đều ở trong lòng người.
Đạo-quân San-chê-ríp vây thành Giê-ru-sa-lem
32 1 Sau các việc nầy và sự thành tín nầy, thì San-chê-ríp loán đến trong xứ Giu-đa, vây các thành bền-vững, có ý hãm lấy nó. 2 Khi Ê-xê-chia thấy San-chê-ríp đã đến, toan hãm đánh Giê-ru-sa-lem, 3 thì người hội-nghị với các quan-trưởng và những người mạnh-dạn đặng ngăn nước suối ở ngoài thành; họ bèn giúp-đỡ người. 4 Dân-sự nhóm lại đông, chận các suối và các khe chảy giữa xứ, mà rằng: Làm gì để cho vua A-si-ri đến, thấy có nước nhiều? 5 Người tự can-đảm, xây-đắp vách thành đã bị hư-lủng, xây nó lên đến tận tháp; rồi lại xây một cái vách khác ở phía ngoài; người làm cho vững-chắc Mi-lô ở trong thành Đa-vít, và chế nhiều cây lao cùng khiên. 6 Người lập những quan-tướng trên dân-sự, rồi hiệp-tập chúng lại gần mình tại phố bên cửa thành, nói động lòng chúng, mà rằng: 7 Khá vững lòng bền chí, chớ sợ, chớ kinh-hãi trước mặt vua A-si-ri và đám quân đông-đảo theo người; vì có một Đấng ở cùng chúng ta thắng hơn kẻ ở với họ: 8 với người chỉ một cánh tay xác-thịt; còn với chúng ta có Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng ta, đặng giúp-đỡ và chiến-tranh thế cho chúng ta. Dân-sự bèn nương-cậy nơi lời của Ê-xê-chia, vua Giu-đa.
9 Sau việc ấy, San-chê-ríp, vua A-si-ri, với cả đạo-binh của người hãy còn vây La-ki, có sai các đầy-tớ người đến Ê-xê-chia và dân Giu-đa ở tại Giê-ru-sa-lem.
(2 Các vua) 18 17 Song, vua A-si-ri ở La-ki sai Tạt-tan, Ráp-sa-ri, và Ráp-sa-kê (Ấy là tên của ba quan-trưởng của vua A-si-ri), đem theo một đạo binh mạnh, đến Giê-ru-sa-lem đánh vua Ê-xê-chia. Chúng đi lên Giê-ru-sa-lem và dừng lại tại cống ao trên, ở bên đường ruộng thợ nện. 18 Đoạn, chúng xin nói chuyện với vua.
Ê-li-a-kim, con trai Hinh-kia, quan cai đền, Sép-na, thơ-ký, và Giô-a, con của A-sáp, quan thái-sử, đều đi ra đến chúng. 19 Ráp-sa-kê nói cùng họ rằng: Ta xin các ngươi hãy nói với Ê-xê-chia rằng: Vua A-si-ri, là vua lớn, nói như vầy: Ngươi nhờ-cậy ai dường ấy? 20 Ngươi có nói (chỉ những lời hư-không đó thôi), mà rằng: Ta có mưu-kế, sức-mạnh đặng tranh-chiến. Vậy, ngươi để lòng tin-cậy nơi ai mà dấy loạn cùng ta? 21 Ta thấy rõ đều đó: Ngươi nhờ-cậy nơi Ê-díp-tô, thật như nương vào cây sậy gãy; vì ai nương-dựa nó, ắt nó sẽ đâm vào tay, xoi lủng ngang qua. Phàm ai nhờ-cậy Pha-ra-ôn, vua Ê-díp-tô, thì đều bị như thế.
22 Có lẽ các ngươi sẽ nói với ta rằng: Chúng tôi nhờ-cậy nơi Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng tôi. Nhưng há chẳng phải các nơi cao và bàn-thờ của Ngài mà Ê-xê-chia có phá-hủy, truyền cho Giu-đa và Giê-ru-sa-lem rằng: Các ngươi khá thờ-phượng Chúa tại Giê-ru-sa-lem ở trước bàn-thờ nầy, chăng?
(2 Sử ký) 32 11 Ê-xê-chia nói rằng: Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta sẽ giải-cứu chúng ta khỏi tay vua A-si-ri, ấy há chẳng phải người dỗ-dành các ngươi đặng phó các ngươi đói-khát cho chết hay sao? 12 Chớ thì chẳng phải chính Ê-xê-chia nầy đã cất những nơi cao và bàn-thờ của Ngài, rồi biểu dân Giu-đa và Giê-ru-sa-lem rằng: Các ngươi khá thờ-lạy trước một bàn-thờ, và chỉ xông hương tại trên đó mà thôi? 13 Các ngươi há chẳng biết đều ta và tổ-phụ ta đã làm cho các dân thiên-hạ sao? Các thần của những dân-tộc thiên-hạ, há giải-cứu xứ chúng nó được khỏi tay ta ư? 14 Nội trong các thần của những dân-tộc mà tổ-phụ ta đã diệt hết đi, há có thần nào giải-cứu dân mình cho khỏi tay ta chăng? Dễ có một mình Thần các ngươi giải-cứu các ngươi đuợc khỏi tay ta chớ! 15 Vậy bây giờ, chớ để Ê-xê-chia phỉnh-gạt, khuyên-dụ các ngươi như thế, và các ngươi chớ tin người; vì chẳng có thần của dân nào nước nào giải-cứu dân mình được khỏi tay ta, hay là khỏi tay tổ-phụ ta; huống chi Đức Chúa Trời các ngươi giải-cứu các ngươi khỏi tay ta!
(2 Các vua) 18 23 Thế thì, ngươi hãy đánh cuộc với chủ ta, là vua A-si-ri. Ta sẽ giao cho ngươi hai ngàn con ngựa, nếu ngươi tìm được quân-kỵ để cỡi chúng nó. 24 Ấy chẳng đặng, thì ngươi làm sao đánh đuổi một quan tướng nhỏ hơn hết của chủ ta đặng? Ngươi cậy nơi Ê-díp-tô đặng kiếm xe và quân-kỵ sao! 25 Há chẳng phải theo lịnh của Đức Giê-hô-va mà ta loán qua miền đây, đặng phá-hủy nó sao? Đức Giê-hô-va thật có phán với ta rằng: Hãy đi lên đánh xứ nầy, và phá-hủy nó.
26 Ê-li-a-kim, con trai Hinh-kia, Sép-na, và Giô-a, bèn nói với Ráp-sa-kê rằng: Hãy nói với các tôi-tớ ông bằng tiếng Sy-ri; vì chúng tôi hiểu thứ tiếng ấy. Chớ nói cùng chúng tôi bằng tiếng Giu-đa vào tai dân-sự ở trên vách-thành. 27 Ráp-sa-kê đáp lại với chúng rằng: Há có phải cùng chủ ngươi và ngươi mà chủ ta sai ta nói các lời nầy sao? Người há chẳng sai ta đến cùng những người đứng trên vách-thành để họ với ngươi ăn phẩn mình và uống nước tiểu mình, sao?
28 Đoạn, Ráp-sa-kê đứng tại đó, cất tiếng la lớn lên bằng tiếng Giu-đa mà rằng: Hãy nghe lời vua A-si-ri, là vua lớn, nói. 29 Vua nói như vầy: Chớ để cho Ê-xê-chia lường-gạt các ngươi, vì hắn không tài nào giải các ngươi khỏi tay ta. 30 Cũng chớ để người dỗ các ngươi tin-cậy nơi Đức Giê-hô-va, mà rằng: Đức Giê-hô-va sẽ giải-cứu chúng ta, và thành nầy sẽ chẳng sa vào tay của vua A-si-ri đâu. 31 Chớ nghe Ê-xê-chia, vì vua A-si-ri nói như vầy: Khá hòa với ta và hàng-đầu ta; mỗi người trong các ngươi sẽ được ăn hoa-quả của vườn nho và của cây vả mình, cùng uống nước giếng mình, 32 cho đến chừng ta tới dẫn các ngươi vào trong một xứ giống như xứ của các ngươi, tức là xứ có lúa và rượu, bánh và vườn nho, một xứ sanh dầu ô-li-ve và mật ong. Như thế các ngươi sẽ sống, và không chết đâu. Vậy, chớ nghe Ê-xê-chia, vì hắn gạt các ngươi khi nói rằng: Đức Giê-hô-va sẽ giải-cứu chúng ta. 33 Những thần của các dân-tộc khác há có giải-cứu xứ mình khỏi tay vua A-si-ri chăng? 34 Thần của Ha-mát, và thần của Ạt-bát ở đâu? Thần của Sê-phạt-va-im, thần của Hê-na, và thần của Y-va ở đâu? Các thần đó có giải-cứu Sa-ma-ri khỏi tay ta chăng? 35 Trong những thần của muôn nước, có thần nào đã giải-cứu xứ họ khỏi tay ta chăng? Đức Giê-hô-va có thế giải-cứu Giê-ru-sa-lem sao?
(2 Sử ký) 32 16 Các đầy-tớ người lại còn nói nghịch cùng Giê-hô-va là Đức Chúa Trời thật, và nghịch cùng Ê-xê-chia, là tôi-tớ Ngài. 18 Chúng la lớn lên, nói bằng tiếng Giu-đa cho dân Giê-ru-sa-lem ở trên vách thành, đặng làm cho chúng sợ hoảng, để hãm lấy thành. 19 Chúng lại nói về Đức Chúa Trời của Giê-ru-sa-lem, như thể các thần của dân thiên-hạ đều là công-việc của tay người ta làm ra.
(2 Các vua) 18 36 Nhưng dân-sự làm thinh, không đáp lại một lời; vì vua có truyền lịnh rằng: Các ngươi chớ trả lời.
37 Ê-li-a-kim, con trai Hinh-kia, quan cai đền, thơ-ký Sép-na, và quan thái-sử Giô-a, con trai A-sáp, trở về Ê-xê-chia, quần-áo xé rách, thuật cho người mọi lời của Ráp-sa-kê.
Lời cầu-nguyện của Ê-xê-chia, và lời tiên-tri Ê-sai — Sự giải-cứu Giê-ru-sa-lem
19 1 Hay được tin ấy, vua Ê-xê-chia xé rách quần-áo mình, mặc áo bao, và đi vào đền-thờ của Đức Giê-hô-va. 2 Đoạn, người sai Ê-li-a-kim, quan cai đền, Sép-na, thơ-ký, và những thầy tế-lễ già hơn hết, mặc bao, đến Ê-sai, thầy tiên-tri, con trai A-mốt. 3 Chúng nói với người rằng: Ê-xê-chia nói như vầy: Ngày nay là một ngày tai-nạn, sửa-phạt, và ô-danh; vì đờn-bà đã đến kỳ mãn-nguyệt, nhưng thiếu sức đẻ con. 4 Có lẽ Giê-hô-va Đức Chúa Trời ông đã nghe các lời của Ráp-sa-kê, mà vua A-si-ri, chủ hắn, đã sai đến đặng phỉ-báng Đức Chúa Trời hằng-sống, và Giê-hô-va Đức Chúa Trời ông sẽ quở-phạt các lời Ngài đã nghe. Vậy, xin hãy cầu-nguyện giùm cho những kẻ còn sống.
5 Các tôi-tớ vua Ê-xê-chia đi đến Ê-sai. 6 Người nói với chúng rằng: Các ngươi khá đáp với chủ mình thế nầy: Đức Giê-hô-va phán như vầy: Chớ sợ-hãi những lời các ngươi đã nghe các tôi-tớ của vua A-si-ri dùng mà phạm đến ta. 7 Ta sẽ khiến một thần đến cùng nó, làm cho nó nghe tiếng đồn, và nó sẽ trở về xứ mình; tại đó ta sẽ dùng gươm giết nó.
8 Khi Ráp-sa-kê trở về vua A-si-ri, thấy vua đương vây Líp-na, vì có hay rằng chủ mình đã lìa khỏi La-ki. 9 Vua bèn nghe nói về Tiệt-ha-ca, vua Ê-thi-ô-bi, rằng: Kìa, người đã kéo ra đặng giao-chiến với ông. Bởi cớ đó, San-chê-ríp lại sai sứ-giả đến Ê-xê-chia, và dặn rằng: 10 Các ngươi hãy nói như vầy với Ê-xê-chia, vua Giu-đa, mà rằng: Chớ để cho Đức Chúa Trời, là Đấng ngươi nhờ-cậy, phỉnh-gạt ngươi, mà nói rằng: Giê-ru-sa-lem sẽ chẳng bị sa vào tay vua A-si-ri. 11 Kìa, người đã hay những việc các vua A-si-ri đã làm cho các xứ mà diệt đi hết thảy: còn ngươi, sẽ thoát khỏi nào! 12 Các thần của những dân-tộc mà tổ-phụ ta đã tuyệt-diệt, há có giải-cứu chúng chăng, là các thần của Gô-xan, Ha-ran, Rết-sép, và dân Ê-đen, ở tại Tê-la-sa? 13 Vua Ha-mát, vua Ạt-bát, vua thành Sê-phạt-va-im, vua Hê-na, và vua Y-va, đều ở đâu?
14 Ê-xê-chia tiếp đặng thơ ở nơi tay các sứ-giả, bèn đọc. Đoạn, người đi lên đền-thờ của Đức Giê-hô-va, và mở thơ ra trước mặt Đức Giê-hô-va. 15 Ê-xê-chia cầu-nguyện Đức Giê-hô-va rằng: Ôi, Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên! Ngài vẫn ngự ở giữa các chê-ru-bin, chỉ một mình Ngài là Đức Chúa Trời của các nước thế-gian. Chính Ngài đã làm nên trời và đất. 16 Hỡi Đức Giê-hô-va! hãy nghiêng tai Ngài và nghe. Hỡi Đức Giê-hô-va! hãy mở mắt Ngài ra và xem. Cầu Chúa hãy nghe các lời mà San-chê-ríp sai nói, đặng phỉ-báng Đức Chúa Trời hằng-sống. 17 Đức Giê-hô-va ôi! quả thật các vua A-si-ri đã diệt các dân-tộc, và phá hoang địa-phận chúng nó, 18 ném các thần chúng nó vào lửa; nhưng chẳng phải là thần, chẳng qua là công-việc của tay người ta làm ra bằng gỗ và bằng đá; nên chúng hủy-diệt các thần ấy. 19 Vậy bây giờ, hỡi Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng tôi ôi! hãy giải-cứu chúng tôi khỏi tay San-chê-ríp, hầu cho muôn nước trên đất biết rằng chỉ một mình Giê-hô-va là Đức Chúa Trời.
20 Ê-sai, con trai A-mốt, sai nói với Ê-xê-chia rằng: Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: Ta có nghe lời ngươi cầu-nguyện cùng ta về việc San-chê-ríp, vua A-si-ri. 21 Nầy là lời Đức Giê-hô-va đã phán về hắn:
Gái đồng-trinh Si-ôn khinh-dể, chê-cười ngươi; con gái Giê-ru-sa-lem đã lắc đầu theo ngươi. 22 Ngươi phỉ-báng và sỉ-nhục ai? cất tiếng lên cùng ai? Thật ngươi đã trừng con mắt nghịch với Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên! 23 Ngươi đã nhờ các sứ-giả mình nhạo-báng Chúa, mà rằng: Ta đem nhiều xe, lên chót núi, đến đỉnh rất xa của Li-ban; ta sẽ đốn những cây bá-hương cao hơn hết, và cây tòng tốt nhứt của nó; ta sẽ đến cõi xa hơn hết, tức rừng rậm của nó. 24 Ta đã đào giếng, uống nước của đất lạ; dưới bàn chơn ta sẽ làm cạn các sông Ê-díp-tô.
25 Sự nầy ta đã làm từ lâu, việc nầy ta đã định từ thời-cổ, ngươi há chẳng nghe đến sao? Bây giờ, ta khiến cho sự đó xảy đến, để cho ngươi phá-hoang các thành kiên-cố ra đống hư-nát. 26 Vì vậy, dân-sự của các thành ấy đều yếu-đuối, bị sợ-hãi và hổ-thẹn; chúng giống như cây cỏ xanh ngoài đồng, tỉ như cây cỏ trên nóc nhà, khác nào lúa mì đã héo trước khi cọng chưa thành. 27 Nơi ngươi ngồi, lúc ngươi đi ra, đi vào, và sự giận-dại ngươi đối cùng ta, ta đã biết hết. 28 Bởi ngươi giận-dại cùng ta, và vì lời kiêu-ngạo ngươi đã thấu đến tai ta, ắt ta sẽ xỏ cái vòng nơi mũi ngươi, để khớp nơi môi-miếng ngươi. Đoạn, ta sẽ khiến ngươi trở về theo con đường mà ngươi đã đi đến.
29 Hỡi Ê-xê-chia, nhờ dấu-hiệu nầy ngươi nhìn-biết rằng lời nầy sẽ ứng-nghiệm: Năm nay, các ngươi sẽ ăn vật hột giống rớt xuống, sanh ra; năm thứ nhì, ăn vật tự mọc lên; nhưng năm thứ ba, các ngươi sẽ gieo và gặt, trồng nho và ăn trái nó. 30 Hễ giống gì thoát khỏi, còn lại của dân-tộc Giu-đa, dưới sẽ châm rễ xuống, trên sẽ kết bông-trái lên. 31 Vì sẽ có phần sót lại từ Giê-ru-sa-lem mà ra, kẻ thoát khỏi từ núi Si-ôn mà đến; lòng sốt-sắng của Đức Giê-hô-va sẽ làm nên việc ấy. 32 Bởi cớ đó, Đức Giê-hô-va phán về vua A-si-ri như vầy: Nó sẽ không vào thành nầy, chẳng xạ tên trong nó, cũng chẳng kéo đến giơ khiên lên trước mặt nó, và chẳng đắp lũy nghịch nó. 33 Đức Giê-hô-va phán: Nó sẽ trở về theo con đường nó đã đi đến, không vào trong thành nầy. 34 Vì tại cớ ta và Đa-vít, kẻ tôi-tớ ta, ta sẽ binh-vực thành nầy đặng cứu nó.
35 Trong đêm đó, có một thiên-sứ của Đức Giê-hô-va đi đến trong dinh A-si-ri, và giết một trăm tám mươi lăm ngàn người tại đó. Sáng ngày mai, người ta thức dậy, bèn thấy quân ấy, kìa, chỉ là thây đó thôi.
(2 Sử ký) 32 21a Đức Giê-hô-va bèn sai một thiên-sứ diệt những người mạnh-dạn, các quan-trưởng và các quan-tướng ở trong trại-quân của vua A-si-ri. Người trở về trong xứ mình, mặt hổ-thẹn;
(2 Các vua) 19 36 San-chê-ríp, vua A-si-ri, bèn trở về, ở tại Ni-ni-ve. Một ngày kia, người thờ-lạy tại trong chùa Nít-róc, thần của mình, thì A-tra-mê-léc và Sa-rết-se giết người bằng gươm; đoạn chúng nó trốn trong xứ A-ra-rát. Ê-sạt-ha-đôn, con trai người, kế-vị người.
(2 Sử ký) 32 22 Như vậy Đức Giê-hô-va cứu Ê-xê-chia và dân-cư thành Giê-ru-sa-lem khỏi tay San-chê-ríp, vua A-si-ri, và khỏi tay mọi người khác, cùng phù-hộ cho chúng bốn bên. 23 Có nhiều người đem những lễ-vật đến dâng cho Đức Giê-hô-va tại Giê-ru-sa-lem, và những vật quí-báu cho Ê-xê-chia, vua Giu-đa; nên từ khi ấy về sau, người được tôn-cao trước mặt các nước.
(2 Các vua) 20 20 Các chuyện khác của Ê-xê-chia, sự mạnh-dạn người, cuộc xây hồ chứa nước, và kinh dẫn nước vào trong thành, đều chép trong sử-ký về các vua Giu-đa. 21a Ê-xê-chia an-giấc cùng các tổ-phụ mình;
(2 Sử ký) 32 32 Các công-việc khác của Ê-xê-chia, và những việc thiện của người, đều chép trong sách dị-tượng của Ê-sai, đấng tiên-tri, con trai của A-mốt, và trong sách các vua Giu-đa và Y-sơ-ra-ên. 33a Ê-xê-chia an-giấc cùng tổ-phụ mình, người ta chôn người trong lăng-tẩm cao của con-cháu Đa-vít; cả Giu-đa và Giê-ru-sa-lem đều tôn-kính người, lúc người thác;