Ngày 02 tháng Bảy

< Lui     Trang Lịch     Tới >

Đọc Ê-sai 21:11-12; 34:5-17; 21:13-17; 23:1-18; 2 Các vua 16:7-18; 2 Sử ký 28:22-27a; 2 Các vua 16:20b-; 18:1-7a

(Ê-sai) 21 11 Gánh-nặng về Đu-ma.

Có người từ Sê-i-rơ kêu tôi rằng: Hỡi người canh, đêm thể nào? Hỡi người canh, đêm thể nào? 12 Người canh đáp rằng: Buổi sáng đến; đêm cũng đến. Nếu muốn hỏi thì hỏi đi; hãy trở lại, hãy đến.

34 5 Vì gươm ta đã uống đủ ở trên trời; nầy, nó sẽ xuống trên Ê-đôm, và trên dân mà ta đã rủa-sả, để làm sự đoán-xét. 6 Gươm của Đức Giê-hô-va đầy những máu, vấy những mỡ, là máu của chiên con và dê đực, mỡ trái cật của chiên đực. Vì có sự tế-tự Đức Giê-hô-va ở Bốt-ra, và có sự đánh-giết lớn ở đất Ê-đôm. 7 Những bò rừng, bò, và bò đực đều ngã xuống; đất chúng nó say vì máu, và bụi chúng nó đượm-nhuần vì mỡ. 8 Vì Đức Giê-hô-va có ngày báo-thù, có năm báo-trả vì cớ Si-ôn.

9 Các khe-suối Ê-đôm sẽ biến thành nhựa thông, bụi-đất nó biến thành lưu-hoàng, đất-đai nó trở nên nhựa thông đương cháy. 10 Ngày đêm chẳng tắt, hằng bay lên những luồng khói; đất sẽ hoang-vu từ đời nọ qua đời kia, đời đời sẽ chẳng có người đi qua. 11 Bồ-nông và nhím sẽ chiếm lấy đó, chim cú chim quạ sẽ ở đó. Chúa sẽ giáng trên đó cái dây lộn-lạo và thước thăng-bằng trống-không. 12 Chúng nó sẽ gọi các kẻ sang-trọng đến ngôi nước mà không có ai; hết thảy các quan-trưởng nó đều ra hư-không. 13 Gai-gốc sẽ mọc lên trong lâu-đài, chà-chuôm cỏ-rác mọc lên trong đồn-lũy. Ấy sẽ là hang của chó đồng, và chỗ nghỉ của chim đà. 14 Thú rừng và chó rừng sẽ gặp nhau tại đó; dê đực kêu nhau; yêu-quái ban đêm loán làm chỗ-ở, và làm nơi náu-nương yên-ổn. 15 Rắn roi sẽ làm ổ tại đó, đẻ trứng, ấp cho nở và nhóm con lại dưới bóng mình; sau nữa, những kên-kên cùng nhau nhóm tại đó, trống và mái thành đôi.

16 Hãy tìm trong sách Đức Giê-hô-va và đọc lấy: trong những thú-vật ấy chẳng một con nào thiếu, chẳng một con nào là không đủ đôi. Vì ấy là miệng Đức Giê-hô-va đã truyền, và Thần Ngài đã nhóm chúng nó lại. 17 Chính Chúa đã bắt thăm cho chúng nó, và tay Ngài dùng dây chia đất nầy cho. Những thú-vật ấy sẽ được đất nầy làm kỉ-vật luôn, và ở đó từ đời nọ qua đời kia.

21 13 Gánh-nặng về A-ra-bi.

Hỡi đoàn đi buôn ở Đê-đan, sẽ ngủ trong rừng xứ A-ra-bi. Dân-cư Thê-ma đã đem nước cho những kẻ khát; 14 đã đón những người trốn đặng cho họ bánh…. 15 Vì họ trốn gươm, trốn gươm trần, trốn cung giương ra, trốn sự chiến-tranh kinh-khiếp. 16 Chúa đã phán cùng tôi như vầy: Trong một năm nữa, kể như năm kẻ ở mướn, cả sự vinh-hiển của Kê-đa sẽ hao-mòn. 17 Những kẻ cầm cung mạnh-mẽ, là con-cái của Kê-đa, sẽ sót lại chẳng bao lăm. Vì Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, đã phán vậy.

Lời tiên-tri về sự suy-sụp của Ty-rơ

23  1 Gánh-nặng về Ty-rơ. Hỡi tàu-bè Ta-rê-si, hãy than-khóc, vì nó đã bị hủy-phá, đến nỗi chẳng còn nhà-cửa nữa! chẳng còn lối vào nữa! Ấy là đều đã tỏ cho họ từ xứ Kít-tim. 2 Hỡi dân-cư bờ biển, là nơi những lái buôn Si-đôn, là những kẻ vượt biển chở đồ-hàng đến, hãy nín-lặng! 3 Hột giống của Si-ho, mùa-màng của sông Ni-lơ, theo đường biển trở đến, ấy là phần lợi nó; nó vốn là chợ buôn của các nước.

4 Hỡi Si-đôn, hãy hổ-thẹn! Vì biển, nơi đồn-lũy biển, có nói như vầy: Ta chưa ở cữ, chưa đẻ con, chưa nuôi trai trẻ, chưa nuôi gái bé. 5 Khi tin nầy đồn đến Ê-díp-tô, người ta nghe tin về Ty-rơ, chắc sẽ đau-thương lắm.

6 Hãy dời qua Ta-rê-si; hỡi dân ở gần biển, hãy than-khóc! 7 Đây há chẳng phải là thành vui-vẻ của các ngươi sao? Là thành có từ đời thượng-cổ, mà chơn nó đã trải đến nơi xa đặng trú-ngụ tại đó.

8 Vậy ai đã định sự ấy nghịch cùng Ty-rơ, là thành đã phân-phát mão triều-thiên, lái buôn nó vốn là hàng vương-hầu, người mua bán nó vốn là tay quí-hiển trong thiên-hạ? 9 Ấy là Đức Giê-hô-va vạn-quân đã định sự nầy, để làm dơ-dáy sự kiêu-ngạo mọi vinh-hiển, và làm nhục mọi kẻ sang-trọng trong thế-gian.

10 Hỡi con gái Ta-rê-si, ngươi không còn bị trói-buộc nữa, hãy đi qua khắp địa-phận ngươi như sông Ni-lơ! 11 Đức Giê-hô-va đã giang tay Ngài trên biển, làm cho các nước rung-động. Ngài đã ban mạng-lịnh về Ca-na-an, mà phá đồn-lũy nó. 12 Ngài có phán rằng: Hỡi con gái Si-đôn, là nữ đồng-trinh bị ức-hiếp kia, ngươi sẽ chẳng còn cứ vui-mừng nữa! Vậy hãy chờ-dậy, sang xứ Kít-tim, tại đó ngươi cũng sẽ không được an-nghỉ đâu!

13 Hãy xem xứ của người Canh-đê, không có dân đó nữa; người A-si-ri lấy làm chỗ cho thú-rừng; chúng nó dựng tháp, phá cung-đền nó làm ra gò-đống. 14 Hỡi tàu-bè Ta-rê-si, hãy than-khóc! Vì đồn-lũy các ngươi hủy-diệt rồi.

15 Trong lúc đó, thành Ty-rơ sẽ bị người ta quên đi trong bảy mươi năm, bằng một đời vua. Mãn bảy mươi năm rồi, Ty-rơ sẽ giống như bài ca của kỵ-nữ hát. 16 Hỡi kỵ-nữ đã bị quên kia, hãy lấy đờn cầm, dạo chơi thành-phố! Khảy cho hay, ca đi ca lại, hầu cho người ta nhớ đến mầy!

17 Mãn bảy mươi năm rồi, Đức Giê-hô-va sẽ thăm-viếng thành Ty-rơ, nó sẽ lại được lợi, sẽ hành-dâm cùng mọi nước trong thế-gian trên mặt đất. 18 Nhưng hàng-hóa lời-lãi của nó sẽ nên thánh cho Đức Giê-hô-va, mà không chứa, cũng không để-dành lại. Vì lời-lãi ấy sẽ phân-phát cho những người ở trước mặt Đức Giê-hô-va, để họ được ăn sung mặc sướng.

Chẳng bao lâu nữa, một số phán xét sẽ bắt đầu được ứng nghiệm, đúng như tiên tri của Ê-sai.

(2 Các vua) 16  7 A-cha sai sứ-giả đến Tiếc-la-Phi-lê-se, vua A-si-ri, nói với người rằng: Tôi là kẻ tôi-tớ vua, là con trai vua; hãy đi đến giải-cứu tôi khỏi tay vua Sy-ri và vua Y-sơ-ra-ên đã dấy lên cùng tôi. 8 A-cha lấy bạc và vàng có ở trong đền-thờ Đức Giê-hô-va và ở trong kho đền vua, gởi đem làm của-lễ cho vua A-si-ri. 9 Vua A-si-ri nhậm làm đều A-cha xin, đi lên hãm-đánh Đa-mách và chiếm lấy, bắt đem dân-cư nó sang Ki-rơ, và giết Rê-xin.

10 A-cha bèn đi đến Đa-mách đặng đón Tiếc-la-Phi-lê-se, vua A-si-ri. A-cha thấy một cái bàn-thờ ở tại Đa-mách, bèn gởi kiểu-mẫu và hình bàn-thờ ấy tùy theo cách chế-tạo nó, cho thầy tế-lễ U-ri. 11 Thầy tế-lễ U-ri chế một cái bàn-thờ y theo kiểu mà vua A-cha từ Đa-mách đã gởi đến; thầy tế-lễ U-ri chế xong bàn-thờ ấy trước khi vua trở về. 12 Khi vua từ Đa-mách trở về, thấy bàn-thờ bèn lại gần và dâng của-lễ trên nó. 13 Người xông trên bàn-thờ của-lễ thiêu và của-lễ chay mình, đổ ra lễ quán và huyết về của-lễ thù-ân tại trên đó. 14 Còn bàn-thờ bằng đồng ở trước mặt Đức Giê-hô-va, thì người cất khỏi chỗ nó tại trước đền-thờ, giữa bàn-thờ mới và đền của Đức Giê-hô-va, rồi để nó bên bàn-thờ của người, về phía bắc.

15 Đoạn, vua A-cha truyền lịnh cho thầy tế-lễ U-ri rằng: Người sẽ xông trên bàn-thờ lớn của-lễ thiêu buổi sáng và của-lễ chay buổi chiều, của-lễ thiêu và của-lễ chay của vua; lại xông của-lễ thiêu và của-lễ chay của cả dân-sự trong xứ, cũng đổ ra tại trên nó lễ quán của họ, và tưới cả huyết con sinh dùng làm của-lễ thiêu, luôn cả huyết về các con sinh khác. Còn bàn-thờ bằng đồng, ta sẽ dùng cầu-vấn ý Chúa. 16 Thầy tế-lễ U-ri làm theo mọi đều vua A-cha truyền-dạy cho người.

17 Vả lại, vua A-cha dỡ các miếng trám của những táng, và cất hết những chậu đặt ở trên; lại hạ cái biển bằng đồng xuống khỏi bò nâng nó, rồi đem để nó trên một nền lót đá. 18 Vì cớ vua A-si-ri, người cũng đổi trong đền-thờ của Đức Giê-hô-va cái hiên cửa dùng về ngày Sa-bát mà người ta đã xây trong đền, và cửa ngoài để dành cho vua.

A-cha qua đời

(2 Sử ký) 28 22 Trong cơn hoạn-nạn, vua A-cha lại càng phạm tội cùng Đức Giê-hô-va; 23 người cúng-tế các thần của dân Đa-mách, là dân đã đánh mình; người nói rằng: Bởi vì các thần của vua Sy-ri đã phù-trợ họ, nên ta sẽ cúng-tế các thần ấy, hầu cho các thần ấy cũng phù-trợ ta nữa. Song le chúng nó gây cho vua và cả Y-sơ-ra-ên phải sa-ngã. 24 A-cha góp lấy các khí-dụng của đền Đức Chúa Trời, đập bể nó ra, và đóng các cửa đền của Đức Giê-hô-va; đoạn lập lấy cho mình những bàn-thờ trong mỗi nơi xó góc của thành Giê-ru-sa-lem. 25 Trong các thành xứ Giu-đa, người dựng lên những nơi cao đặng xông hương cho các thần khác, mà chọc giận Giê-hô-va Đức Chúa Trời của tổ-phụ người.

26 Vả, các chuyện khác của người, thói ăn cách ở người từ đầu đến cuối, đều chép trong sách các vua Giu-đa và Y-sơ-ra-ên. 27 A-cha an-giấc cùng tổ-phụ mình, và người ta chôn người trong thành Giê-ru-sa-lem; song không để người nơi lăng-tẩm các vua Y-sơ-ra-ên. 

(2 Các vua) 16 20b Ê-xê-chia, con trai người, kế-vị người.

Ê-xê-chia làm vua Giu-đa

18 1 Năm thứ ba đời Ô-sê, con trai Ê-la, vua Y-sơ-ra-ên, thì Ê-xê-chia, con trai A-cha, vua Giu-đa, lên làm vua. 2 Người được hai mươi lăm tuổi khi lên làm vua, và cai-trị hai mươi chín năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ người tên là A-bi, con gái của Xa-cha-ri. 3 Người làm đều thiện trước mặt Đức Giê-hô-va y như Đa-vít, tổ-phụ người, đã làm. 4 Người phá-hủy các nơi cao, đập bể những trụ-thờ, đánh hạ các A-sê-ra, và bẻ gãy con rắn đồng mà Môi-se đã làm; bởi vì cho đến khi ấy dân Y-sơ-ra-ên xông hương cho nó. Người ta gọi hình rắn ấy là Nê-hu-tan (Nghĩa là một miếng đồng)5 Ê-xê-chia nhờ-cậy nơi Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên; nên trong các vua sau người, hoặc trong những vua trước người, chẳng có một ai giống như người. 6 Người tríu-mến Đức Giê-hô-va, không xây-bỏ Ngài, song gìn-giữ các điều-răn mà Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se. 7a Đức Giê-hô-va ở cùng người; hễ người đi làm sự gì, đều được thành-tựu.

< Lui    Trang Lịch     Tới >