Ngày 25 tháng Năm

< Lui     Trang Lịch     Tới >

Đọc Châm ngôn 14:10, 13, 15:13, 17:22, 18:14, 25:20, 27:11, 29:6, 15:30, 25:25, 27:20, 30:1-33, 31:1-31

Vui và buồn

14 10 Lòng nhìn-biết sự cay-đắng của lòng;
Một người ngoại không chia vui với nó được.

13 Dầu trong lúc cười-cợt lòng vẫn buồn-thảm;
Và cuối-cùng sự vui, ấy là đều sầu-não.

15 13 Lòng khoái-lạc làm cho mặt mày vui-vẻ;
Nhưng tại lòng buồn-bã trí bèn bị nao-sờn.

17 22 Lòng vui-mừng vốn một phương thuốc hay;
Còn trí nao-sờn làm xương-cốt khô-héo.

18 14 Tâm-thần người nâng-đỡ sự bịnh-hoạn mình;
Nhưng trí bị nao-sờn ai chịu sao nổi?

25 20 Ai hát cho lòng buồn-thảm nghe,
Khác nào kẻ lột áo mình khi ngày lạnh,
Và như giấm đổ trên diêm-tiêu vậy.

27 11 Hỡi con, khá khôn-ngoan, và làm vui lòng cha,
Để cha có thế đáp lại cùng kẻ nào sỉ-nhục cha.

29 6 Trong tội-lỗi của kẻ ác có một cái bẫy,
Nhưng người công-bình ca-hát mừng-rỡ.

Tin lành

15 30 Sự sáng con mắt khiến lòng vui-vẻ;
Và một tin-lành làm cho xương-cốt được béo-tốt.

25 25 Tin lành ở xứ xa đến,
Giống như nước mát-mẻ cho người khát-khao.

Tò mò

27 20 Con mắt loài người chẳng hề chán,
Cũng như Âm-phủ và vực-sâu không hề đầy vậy.

Châm-ngôn và lời cầu-nguyện của A-gu-rơ

30 1 Lời của A-gu-rơ, con trai Gia-kê,
Châm-ngôn mà người ấy nói ra cho Y-thi-ên và U-canh.
2 Quả thật ta là ngu-muội hơn ai hết,
Ta không có thông-sáng bằng một người.
3 Ta không học được sự khôn-ngoan,
Và chẳng có được sự tri-thức của Đấng Thánh.
4 Ai đã lên trời, rồi lại xuống?
Ai đã góp gió trong lòng tay mình?
Ai đã bọc nước trong áo mình?
Ai lập các giới-hạn của đất?
Danh người là chi, và tên con trai người là gì?
Nếu ngươi biết, hãy nói đi.

5 Các lời của Đức Chúa Trời đều đã thét-luyện:
Ngài là cái thuẫn-đỡ cho người nương-cậy nơi Ngài.
6 Chớ thêm chi vào các lời Ngài.
E Ngài quở-trách ngươi, và ngươi bị cầm nói dối chăng.

7 Tôi có cầu Chúa hai đều;
Xin chớ từ-chối trước khi tôi thác:
8 Xin dan xa khỏi tôi sự lường-gạt và lời dối-trá;
Chớ cho tôi nghèo-khổ, hoặc sự giàu-sang;
Hãy nuôi tôi đủ vật-thực cần-dùng,
9 E khi no đủ, tôi từ-chối Chúa,
Mà rằng: Đức Giê-hô-va là ai?
Và lại kẻo e tôi bị nghèo-khổ, ăn trộm-cắp,
Và làm ô danh của Đức Chúa Trời tôi chăng.

10 Chớ phao-vu kẻ tôi-tớ cho chủ nó,
E nó rủa-sả ngươi, và ngươi mắc tội chăng.

11 Có một dòng-dõi rủa-sả cha mình,
Cũng không chúc phước cho mẹ mình.
12 Có một dòng-dõi tư-tưởng mình thánh-sạch,
Song chưa được rửa sạch nhơ-bởn mình.
13 Có một dòng-dõi bộ mặt kiêu-hãnh thay,

Mí mắt giương cao dường nào!
14 Có một dòng-dõi nanh tợ gươm,
Hàm răng như dao,
Đặng cắn-xé những người khó-khăn khỏi đất,
Và những kẻ nghèo-khổ khỏi loài người.

15 Con đỉa có hai con gái, nói rằng: Hãy cho! hãy cho!
Có ba sự chẳng hề no đủ,
Và bốn đều chẳng nói rằng: Thôi, đủ!
16 Tức là Âm-phủ, người đờn-bà son-sẻ,
Đất không no đủ nước,
Và lửa mà chẳng hề nói: Đủ rồi!
17 Con mắt nhạo-báng cha mình,
Khinh sự vâng lời đối với mẹ mình,
Các con quạ của trũng sẽ móc mắt ấy,
Và các chim ưng con sẽ ăn nó đi.

18 Có ba việc lấy làm diệu-kỳ cho ta,
Và bốn đều mà ta chẳng biết được:
19 Là đường chim ưng bay trên trời;
Lối con rắn bò trên hòn đá;
Lằn tàu chạy giữa biển,
Và đường người nam giao-hiệp với người nữ.
20 Tánh-nết người kỵ-nữ cũng vậy:
Nàng ăn, rồi nàng lau miệng,
Và nói rằng: Tôi có phạm tội-ác đâu.

21 Có ba vật làm cho trái đất rúng-động,
Và bốn đều, nó chẳng chịu nổi được:
22 Là tôi-tớ khi được tức-vị vua;
Kẻ ngu-muội khi được no-nê đồ-ăn;
23 Người đờn-bà đáng ghét khi lấy chồng,
Và con đòi khi kế-nghiệp bà chủ mình.

24 Có bốn vật nhỏ-mọn trên trái đất,
Song vốn rất khôn-ngoan:
25 Con kiến dầu là loại yếu-hèn,
Lo sắm-sẵn vật-thực mình trong mùa hạ;
26 Con thỏ rừng dầu là loại không sức-lực,
Đóng cư-sở mình trong hòn đá;
27 Loài cào-cào dầu không có vua-chúa,
Bay ra có từng đám;
28 Con thằn-lằn mà người ta lấy tay bắt được,
Vẫn ở trong đền vua.

29 Có ba vật điệu đi tốt-đẹp,
Và bốn vật nước-bước xem sang-trọng:
30 Sư-tử, mạnh hơn hết trong các loài vật,
Chẳng lui lại trước mặt loài nào cả;
31 Con ngựa hăng thắng tử-tế, con dê đực,
Và vua không ai đối-địch được.

32 Nếu ngươi có làm ngu-dại mà tự cao kiêu-ngạo,
Và nếu ngươi có ác-tưởng, hãy đặt tay che miệng mình.
33 Vì ép sữa làm ra mỡ-sữa,
Và đánh-đập lỗ mũi bèn làm cho phun máu;
Cũng vậy trêu-chọc giận sanh ra đều tranh-cạnh.

Lời mẹ vua Lê-mu-ên khuyên con trai mình

311 Lời của vua Lê-mu-ên,
Các châm-ngôn mà mẹ người dạy cho người.

2 Hỡi con ta sẽ nói gì? Hỡi con của thai ta, ta phải nói chi?
Hỡi con của sự khấn-nguyện ta, ta nên nói đều gì với con?
3 Chớ phó sức-lực con cho người đờn-bà,
Đừng ở theo con đường gây cho vua-chúa bị bại-hoại.
4 Hỡi Lê-mu-ên, chẳng xứng-hiệp cho các vua,

Chẳng xứng-hiệp cho các vua uống rượu,
Hay là cho các quan-trưởng nói rằng: Vật uống say ở đâu?
5 E chúng uống, quên luật-pháp,
Và làm hư sự xét-đoán của người khốn-khổ chăng.
6 Hãy ban vật uống say cho người gần chết,
Và rượu cho người có lòng bị cay-đắng:
7 Họ hãy uống, và quên nỗi nghèo-khổ mình,
Chẳng nhớ đến đều cực-nhọc của mình nữa.
8 Hãy mở miệng mình binh kẻ câm,
Và duyên-cớ của các người bị để-bỏ.
9 Khá mở miệng con, xét-đoán cách công-bình,
Và phân-sử phải-nghĩa cho người buồn-thảm và nghèo-nàn.

Khen-ngợi người nữ tài-đức

10 Một người nữ tài-đức ai sẽ tìm được?
Giá-trị nàng trổi hơn châu-ngọc.
11 Lòng người chồng tin-cậy nơi nàng,
Người sẽ chẳng thiếu huê-lợi.
12 Trọn đời nàng làm cho chồng được ích-lợi,
Chớ chẳng hề sự tổn-hại.
13 Nàng lo tìm lông chiên và gai sợi,
Lạc-ý lấy tay mình mà làm công-việc.
14 Nàng giống như các chiếc tàu buôn-bán,
Ở từ chỗ xa chở bánh mình về.
15 Nàng thức-dậy khi trời còn tối,
Phát vật-thực cho người nhà mình,
Và cắt công-việc cho các tớ gái mình.
16 Nàng tưởng đến một đồng-ruộng, bèn mua nó được;
Nhờ hoa-lợi của hai tay mình, nàng trồng một vườn nho.
17 Nàng thắt lưng bằng sức-lực,
Và làm hai cánh tay mình ra mạnh-mẽ.
18 Nàng cảm thấy công-việc mình được ích-lợi;
Ban đêm đèn nàng chẳng tắt.
19 Nàng đặt tay vào con quay,
Và các ngón tay nàng cầm con cúi.
20 Nàng mở đưa tay ra giúp kẻ khó-khăn,
Giơ tay mình lên tiếp người nghèo-khổ.
21 Nàng không sợ người nhà mình bị giá tuyết,
Vì cả nhà đều mặc áo bằng lông-chiên đỏ sặm.
22 Nàng làm lấy những chăn-mền;
Áo-xống nàng đều bằng vải gai mịn màu đỏ điều.
23 Tại nơi cửa thành chồng nàng được chúng biết,
Khi ngồi chung với các trưởng-lão của xứ.
24 Nàng chế áo lót và bán nó;
Cũng giao đai lưng cho con buôn.
25 Nàng mặc lấy sức-lực và oai-phong,
Và khi tưởng đến buổi sau, bèn vui-cười.
26 Nàng mở miệng ra cách khôn-ngoan,
Phép-tắc nhơn-từ ở nơi lưỡi nàng.
27 Nàng coi-sóc đường-lối của nhà mình,
Không hề ăn bánh của sự biếng-nhác.
28 Con cái nàng chổi-dậy, chúc nàng được phuớc;
Chồng nàng cũng chổi-dậy, và khen-ngợi nàng rằng:
29 Có nhiều người con gái làm-lụng cách tài-đức,
Nhưng nàng trổi hơn hết thảy.
30 Duyên là giả-dối, sắc lại hư-không;
Nhưng người nữ nào kính-sợ Đức Giê-hô-va sẽ được khen-ngợi.
31 Hãy ban cho nàng bông-trái của tay nàng;
Khá để các công-việc nàng ngợi-khen nàng tại trong cửa thành.

< Lui    Trang Lịch     Tới >