Xây Dựng Các Thành Phố và Cung Điện Hoàng Gia
Trong khi đền thờ đang được xây dựng, thì cung điện hoàng gia cho Sa-lô-môn cũng đang được xây dựng. Cung điện thực sự cần thêm sáu năm nữa để hoàn thành so với đền thờ và bao gồm các khu nhà riêng biệt cho cả Sa-lô-môn và con gái của Pha-ra-ôn (người mà ông đã cưới). Chương trình xây dựng của Sa-lô-môn bao gồm việc xây dựng hoặc sửa chữa nhiều thành phố trong khắp vương quốc của ông, một nhiệm vụ được hoàn thành thông qua việc sử dụng lao động cưỡng bức bởi các tù nhân sống trong nước.
Xây cung-điện của Sa-lô-môn
(1 Các vua) 7 1 Sa-lô-môn cũng cất cung-điện mình, xong mọi việc trong mười ba năm. 2 Người lại cất cái cung rừng Li-ban, bề dài một trăm thước, bề ngang năm mươi thước, và bề cao ba mươi thước, đặt trên bốn hàng cột bằng gỗ bá-hương, có những xà ngang bằng gỗ bá-hương để trên những cột. 3 Trần của các phòng bởi cột chống đỡ, số là bốn mươi lăm cây, mười làm cây mỗi dãy, đều đóng bằng ván gỗ bá-hương. 4 Có ba dãy phòng, cửa-sổ đối ngang nhau. 5 Hết thảy cửa và cột đều vuông, và các cửa-sổ của ba dãy phòng đều đối mặt nhau.
6 Người cất hiên cửa có trụ, bề dài năm mươi thước, và bề rộng ba mươi thước: trước hiên nầy có một hiên khác cũng có trụ và bực.
7 Sa-lô-môn cũng xây hiên để ngai, là nơi người xét-đoán, và gọi là hiên xét-đoán; rồi dùng ván gỗ bá-hương lót từ nền đến trần.
8 Cung của Sa-lô-môn ở trong sân thứ nhì phía sau cửa hiên, cũng xây một cách giống như vậy.
Cũng xây cho con gái Pha-ra-ôn mà Sa-lô-môn đã cưới, một cái cung như kiểu của hiên nầy.
9 Các cung điện nầy đều xây bằng đá quí, đục theo thước tấc, cưa-xẻ, hoặc bề trong hay bề ngoài, từ nền đến cổ-bồng cây cột, và cho đến vách của sân lớn đều cũng vậy. 10 Cái nền thì bằng đá quí và lớn, có hòn thì mười thước, hòn thì tám thước. 11 Trên các nền nầy, lại còn những đá quí đục theo thước tấc và gỗ bá-hương. 12 Vách hành-lang lớn, tứ-vi có ba hàng đá chạm và một hàng cây đà bằng gỗ bá-hương, y như hành-lang phía trong của đền Đức Giê-hô-va, và y như cửa hiên đền.
(2 Sử ký) 7 11 Như vậy, Sa-lô-môn làm xong đền Đức Giê-hô-va và cung vua; phàm công-việc gì Sa-lô-môn rắp lòng làm trong đền Đức Giê-hô-va và trong cung vua, đều xong cả.
12 Ban đêm Đức Giê-hô-va hiện đến cùng Sa-lô-môn, mà rằng: Ta có nghe lời cầu-nguyện ngươi, và đã chọn nơi nầy làm một nhà tế-lễ. 13 Nếu ta đóng các từng trời lại, không cho mưa xuống, khiến cào-cào phá-hại thổ-sản, và giáng ôn-dịch giữa dân-sự ta; 14 và nhược bàng dân-sự ta, là dân gọi bằng danh ta, hạ mình xuống, cầu-nguyện, tìm-kiếm mặt ta, và trở lại, bỏ con đường tà, thì ta ở trên trời sẽ nghe, tha-thứ tội chúng nó, và cứu xứ họ khỏi tai-vạ. 15 Bấy giờ, mắt ta sẽ đoái-xem, lỗ tai ta sẽ lắng nghe lời nào cầu-nguyện tại nơi nầy; 16 vì bây giờ, ta đã chọn và khiến cho cái nhà nầy ra thánh, hầu cho danh ta ngự đó đời đời; mắt cùng lòng ta sẽ ở đó luôn luôn. 17 Còn ngươi, nếu ngươi khứng đi trước mặt ta như Đa-vít, cha ngươi đã làm, làm theo mọi đều ta phán dạy ngươi, gìn-giữ luật-lệ và giới-mạng ta, 18 thì ta sẽ lập ngôi nước ngươi được bền-vững, y theo lời ước ta đã kết với Đa-vít, cha ngươi, mà rằng: Ngươi sẽ chẳng hề thiếu người quản-trị Y-sơ-ra-ên. 19 Nhưng nếu các ngươi bội-nghịch, bỏ các luật-lệ và giới-mạng ta đã đặt trước mặt các ngươi, đi hầu-việc những tà-thần và thờ-lạy chúng nó, 20 thì ta sẽ rút nhổ các ngươi khỏi đất ta đã ban cho các ngươi; còn cái nhà nầy mà ta đã biệt riêng ra thánh cho danh ta, ta sẽ bỏ nó đi, làm cho nó nên một câu tục-ngữ, một việc nhạo-cười giữa các dân-tộc. 21 Cái nhà nầy dẫu cao dường nào, hễ ai đi qua gần nó cũng sẽ lấy làm lạ mà nói rằng: Cớ sao Đức Giê-hô-va có xử xứ nầy và đền nầy như thế? 22 Thì người ta sẽ đáp rằng: Bởi vì họ lìa-bỏ Giê-hô-va Đức Chúa Trời của tổ-phụ họ, là Đấng đã dẫn họ ra khỏi xứ Ê-díp-tô, và vì họ đeo-đuổi theo các tà-thần, thờ-lạy và hầu-việc chúng nó, nên Ngài đã giáng trên họ các tai-vạ nầy.
(1 Các vua) 9 10 Xảy ra vừa chẵn hai mươi năm khi Sa-lô-môn đã xây xong hai cái nhà, tức là đền của Đức Giê-hô-va và cung-điện vua, 11 thì bấy giờ, vua Sa-lô-môn ban cho Hi-ram, vua Ty-rơ, hai mươi thành ở xứ Ga-li-lê; vì Hi-ram có cấp cho Sa-lô-môn gỗ bá-hương, gỗ tùng, và vàng, tùy người muốn bao nhiêu. 12 Hi-ram từ Ty-rơ đến đặng xem các thành mà Sa-lô-môn đã ban cho mình, nhưng các thành đó chẳng đẹp lòng người, 13 và người nói rằng: Hỡi anh, những thành mà anh cho em đó là cái gì? Rồi người gọi các thành ấy là xứ Ca-bun, hãy còn gọi như vậy đến ngày nay. 14 Vả, Hi-ram đã gởi cho vua Sa-lô-môn một trăm hai mươi ta-lâng vàng.
Sa-lô-môn xây các thành
(2 Sử ký) 8 1 Cuối hai mươi năm, sau khi Sa-lô-môn đã xây-cất xong cái đền của Đức Giê-hô-va và cái cung mình, 2 thì Sa-lô-môn cũng sửa-xây lại các thành mà vua Hu-ram đã nhường cho người, và khiến cho dân Y-sơ-ra-ên ở đó. 3 Sa-lô-môn đi đến đánh Ha-mát-Xô-ba và thắng được. 4 Người xây thành Tát-mốt trong đồng-vắng, và xây các thành dùng làm kho-tàng tại xứ Ha-mát. 5 Người cũng xây Bết-Hô-rôn trên và Bết-Hô-rôn dưới, là những thành bền-vững, có vách-tường, cửa và then-khóa; 6 lại xây thành Ba-lát và các thành làm kho-tàng của Sa-lô-môn, các thành để chứa xe, và các thành cho lính-kỵ người ở; phàm đều gì Sa-lô-môn ước-ao xây-cất, hoặc tại Giê-ru-sa-lem, trên Li-ban, hay là trong khắp xứ phục dưới quyền người, thì đều xây-cất cả.
(1 Các vua) 9 20 Hết thảy những người còn sống sót lại trong dân A-mô-rít, dân Hê-tít, dân Phê-rê-sít, dân Hê-vít, và dân Giê-bu-sít, không thuộc về dân Y-sơ-ra-ên, 21 tức là các con-cháu của chúng nó còn lại ở trong xứ mà dân Y-sơ-ra-ên không đủ sức diệt hết được, thì Sa-lô-môn bắt phụ làm xâu-dịch cho đến ngày nay. 22 Nhưng Sa-lô-môn không bắt dân Y-sơ-ra-ên làm tôi-mọi; song họ làm binh-chiến, tôi-tớ, quan-trưởng, quan-tướng, quan cai xe, và lính-kị của người. 23 Còn về các quan-trưởng đặt lên coi-sóc các công-việc của Sa-lô-môn, số là năm trăm năm mươi người; họ cai-trị dân làm công-việc.
15 Nầy là cớ sao Sa-lô-môn đã bắt xâu đặng xây-cất đền Đức Giê-hô-va và cung-điện mình, luôn với Mi-lô, vách-thành Giê-ru-sa-lem, Hát-so, Mê-ghi-đô, và Ghê-xe.
(2 Sử ký) 8 11 Sa-lô-môn sai rước công-chúa Pha-ra-ôn ở thành Đa-vít lên cung mà người đã cất cho nàng; vì người nói rằng: Vợ ta chẳng nên ở trong cung Đa-vít, vua Y-sơ-ra-ên, vì nơi nào hòm của Đức Giê-hô-va đến, thì đã nên thánh rồi.
(1 Các vua) 9 26 Vua Sa-lô-môn cũng sắm-sửa một đoàn tàu tại Ê-xi-ôn-Ghê-be, gần Ê-lốt, trên mé Biển-đỏ, trong xứ Ê-đôm. 27 Hi-ram sai những tôi-tớ mình, tức những thủy-thủ, thông-thạo về nghề đi biển, đến trong đoàn tàu đó, đặng giúp tôi-tớ của Sa-lô-môn. 28 Họ đi Ô-phia đem về cho Sa-lô-môn bốn trăm hai mươi ta-lâng vàng.
10 22 Vì đoàn tàu Ta-rê-si của vua mỗi ba năm một lần vượt biển với đoàn tàu của Hi-ram, đem về vàng, bạc, ngà voi, con khỉ, và con công.
Sự Rộng Lớn của Vinh Quang Sa-lô-môn
Bởi vì Sa-lô-môn đã cầu xin sự khôn ngoan thay vì sự giàu có, Đức Chúa Trời đã hứa ban cho ông cả hai—sự khôn ngoan vượt trội hơn mọi người, và sự giàu có vô hạn. Qua nhiều năm triều đại của Sa-lô-môn, lời hứa của Đức Chúa Trời đã trở thành hiện thực. Vương quốc của Sa-lô-môn đã phát triển thành vương quốc hòa bình và thịnh vượng nhất từng được biết đến. Vinh quang của Sa-lô-môn được ghi nhận không chỉ bởi các số liệu chính thức mà còn bởi chuyến viếng thăm của Nữ hoàng Sê-ba. Chuyến viếng thăm này hoàn toàn đáng kinh ngạc, đặc biệt vì quê hương của nữ hoàng ở miền nam Ả-rập (có lẽ là quốc gia Yemen hiện đại) cách xa 1200 dặm đi bằng lạc đà xuyên qua các vùng sa mạc nóng bỏng, nơi có những nhóm cướp lưu động sẵn sàng cướp đoạt kho báu mà bà mang theo. Điều thúc đẩy bà đến từ một khoảng cách xa như vậy vượt xa sự tò mò đơn thuần về sự giàu có của Sa-lô-môn. Đó là việc tìm kiếm sự khôn ngoan và sự thông sáng đã thôi thúc bà (như đã thôi thúc con người ở mọi thời đại), và bà không hề thất vọng.
(1 Các vua) 4 29 Đức Chúa Trời ban cho Sa-lô-môn sự khôn-ngoan, sự thông-sáng rất cao, cùng lòng rộng-rãi như cát trên bờ biển. 30 Sự khôn-ngoan của Sa-lô-môn trổi hơn sự khôn-ngoan của mọi người phương-đông, và sự khôn-ngoan của người Ê-díp-tô. 31 Người khôn-ngoan hơn mọi người, khôn-ngoan hơn Ê-than, người Ếch-ra-hít, hơn Hê-man, Canh-côn, và Đạt-đa, là các con trai Ma-hôn; danh tiếng người đồn ra trong các dân-tộc chung-quanh. 32 Người nói ba ngàn câu châm-ngôn, và làm một ngàn năm bài thơ. 33 Người luận về cây-cối, từ cây bá-hương của Li-ban cho đến chùm kinh-giới mọc ra nơi vách; người cũng có luận về loài vật, chim, loài côn-trùng, và cá. 34 Có kẻ từ các dân-tộc đến nghe sự khôn-ngoan của Sa-lô-môn, và các vua ở thế-gian mà đã nghe nói về sự khôn-ngoan của người, đều sai sứ đến.
10 14 Vàng mà vua Sa-lô-môn thâu nhận mỗi năm cân đến sáu trăm bảy mươi sáu ta-lâng, 15 không kể vàng người thâu lấy nơi người buôn bán dông, và nơi sự đổi-chác của kẻ thương-mại, cùng vàng mà các vua A-ra-bi, và các quan tổng-đốc của xứ đem nộp. 16 Vua Sa-lô-môn làm hai trăm cái khiên lớn bằng vàng đánh giác, cứ mỗi cái dùng sáu trăm siếc-lơ vàng; 17 lại làm ba trăm cái khiên nhỏ, bằng vàng đánh giác, cứ mỗi cái dùng ba min vàng. Vua để các khiên ấy trong đền rừng Li-ban.
18 Vua cũng làm một cái ngai lớn bằng ngà, bọc vàng ròng. 19 Ngai nầy có sáu nấc; thân cao ngai phía sau thì tròn; mỗi phía ngai có thanh nâng tay, hai con sư-tử đứng kề. 20 Lại có mười hai con khác đứng trên sáu nấc, nơi hữu và tả: chẳng có nước nào làm ngai giống như vậy.
21 Hết thảy các chén uống của vua Sa-lô-môn đều bằng vàng, và những khí-dụng trong cung rừng Li-ban đều cũng bằng vàng ròng. Chẳng có chi là bằng bạc: trong đời vua Sa-lô-môn, người ta chẳng kể bạc là chi.
27 Tại Giê-ru-sa-lem vua làm cho bạc ra thường như đá, và cây bá-hương nhiều như cây sung mọc nơi đồng-bằng.
23 Ấy vậy, vua Sa-lô-môn trổi hơn các vua thế-gian về sự giàu-có và sự khôn-ngoan. 24 Cả thiên-hạ đều tìm-kiếm mặt Sa-lô-môn đặng nghe sự khôn-ngoan mà Đức Chúa Trời đã để trong lòng người. 25 Cứ hằng năm, theo lệ định, mọi người đều đem đến dâng vật mình tiến-cống cho vua, nào chậu bằng bạc và bằng vàng, áo-xống, binh-khí, thuốc-thơm, ngựa, và la.
4 26 Sa-lô-môn có bốn vạn tàu để ngựa gác xe, và một vạn hai ngàn lính-kỵ.
10 26 Sa-lô-môn cũng nhóm xe và lính-kị; có một ngàn bốn trăm xe và mười hai ngàn lính-kị, để trong các thành chứa xe, và tại Giê-ru-sa-lem, gần bên vua.
28 Vua Sa-lô-môn do nơi Ê-díp-tô mà được ngựa; một đoàn con buôn của vua đi kiếm mua từng bầy, giá phải chăng. 29 Mỗi cỗ xe mua ở xứ Ê-díp-tô và dẫn về Giê-ru-sa-lem, giá đáng sáu trăm siếc-lơ bạc, còn mỗi con ngựa giá đáng một trăm năm mươi siếc-lơ. Các vua dân Hê-tít và vua Sy-ri cũng theo giá ấy, nhờ những con buôn của vua mà mua về.
4 21 Sa-lô-môn cai-trị trên các nước, từ sông cái cho đến xứ Phi-li-tin, cho đến ranh Ê-díp-tô. Các nước ấy đều tiến-cống và phục Sa-lô-môn trọn đời người.
24 Vả lại, Sa-lô-môn cai-trị trên các xứ ở bên nầy sông, trên các vua của mấy xứ đó, từ Típ-sắc cho đến Ga-xa; và người hòa-hảo với các dân ở bốn phía.
20 Dân Giu-đa và Y-sơ-ra-ên đông như cát trên bờ biển, ăn uống và vui chơi.
25 Trọn đời vua Sa-lô-môn trị-vì, dân Giu-đa và Y-sơ-ra-ên ăn-ở yên-ổn vô-sự từ Đan cho đến Bê-e-Sê-ba, ai nấy đều ở dưới cây nho và cây vả mình.
1 Vua Sa-lô-môn trị-vì trên cả Y-sơ-ra-ên. 2 Nầy là các triều-thần của người: A-xa-ria, con trai thầy tế-lễ Xa-đốc; 3 Ê-li-ô-rếp và A-hi-gia, con trai của Si-sa, làm ký-lục; Giê-hô-sa-phát, con trai A-hi-lút, làm thủ-bộ; 4 Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, làm tổng-binh, Xa-đốc và A-bia-tha làm thầy tế-lễ. 5 A-xa-ria, con trai Na-than, làm đầu các quan-lại; Xa-bút, con trai Na-than, làm tể-tướng và là bạn của vua; 6 A-hi-sa, làm quan cai cung-điện; và A-đô-ni-ram, con trai Áp-đa, coi việc cống-thuế.
7 Sa-lô-môn có mười hai người làm đầu quan-lại cai-trị cả Y-sơ-ra-ên, để cung-cấp lương-thực cho vua và cho nhà vua: mỗi người trong một năm phải cung-cấp một tháng. 8 Nầy là các tên họ: Con trai Hu-rơ, coi về trong núi Ép-ra-im; 9 con trai Đê-ke, coi về Ma-kát, Sa-an-bim, Bết-Sê-mết, và Ê-lôn của Bết-Ha-nan; 10 con trai Hê-sết, coi về A-ru-bốt; người coi luôn Sô-cô và cả xứ Hê-phe. 11 Con trai A-bi-na-đáp coi cả đồng cao Đô-rơ; Ta-phát, con gái Sa-lô-môn, là vợ người. 12 Ba-a-na, con trai A-hi-lút, coi Tha-a-nác, Mê-ghi-đô, và cả xứ Bết-Sê-an, ở gần Xạt-han, dưới Gít-rê-ên, từ Bết-Sê-an cho đến A-bên-Mê-hô-la và cho đến khỏi bên kia Giốc-mê-am. 13 Con trai Ghê-be ở tại Ra-mốt của Ga-la-át; người coi thôn Giai-rơ, ở trong Ga-la-át; Giai-rơ là con trai của Ma-na-se; người cũng cai-trị miền Ạt-gốp, trong Ba-san, sáu mươi thành lớn có tường-thành và then cửa đồng. 14 A-hi-na-đáp, con trai Y-đô, ở tại Ma-ha-na-im; 15 A-hi-mát, trong địa-phận Nép-ta-li; người cũng cưới một con gái của Sa-lô-môn làm vợ, tên là Bách-mát. 16 Ba-a-na, con trai Hu-sai, ở trong xứ A-se và A-lốt; 17 Giê-hô-sa-phát, con trai Pha-ru-ác, coi về Y-sa-ca; 18 Si-mê-i, con trai Ê-la, coi về Bên-gia-min; 19 Ghê-be, con trai U-ri, coi về xứ Ga-la-át, thuở xưa vốn là xứ của Si-hôn, vua dân A-mô-rít, và của Óc, vua Ba-san. Chỉ có một mình người làm đầu quan-lại coi về cả miền nầy.
22 Lương-thực của nhà Sa-lô-môn cần dùng trong mỗi ngày là: ba mươi cô-rơ bột miến lọc, và sáu mươi cô-rơ bột miến thường, 23 mười con bò mập, hai mươi con bò nơi đồng cỏ, và một trăm con chiên, không kể nai đực, hoàng-dương, cà-tong, và vịt gà nuôi mập.
27 Các người làm đầu quan-lại, mỗi người một tháng, lo sắm-sửa đồ cần dùng cho vua Sa-lô-môn và cho hết thảy những người được nhận-tiếp nơi bàn vua, chẳng thiếu chi hết. 28 Họ theo phiên mình, mỗi người sắm-sửa đem đến nơi vua ở, lúa mạch và rơm cho ngựa dùng để kéo và để cỡi.
Nữ-vương nước Sê-ba đến thăm Sa-lô-môn
10 1 Khi nữ-vương Sê-ba nghe nói về danh-tiếng của Sa-lô-môn và về danh của Đức Giê-hô-va, bèn đến hỏi thử Sa-lô-môn nhiều câu đố. 2 Bà đến Giê-ru-sa-lem có hầu-hạ theo rất đông, lạc-đà chở thuốc thơm, nhiều vàng và ngọc. Bà đến cùng Sa-lô-môn, nói với người mọi đều có ở trong lòng mình. 3 Sa-lô-môn đáp các câu hỏi của bà, chẳng câu nào ẩn-bí quá cho vua, mà vua không giải nghĩa nổi cho bà.
4 Khi nữ-vương Sê-ba thấy mọi sự khôn-ngoan của Sa-lô-môn, cung-điện người đã cất, 5 những món ăn trên bàn người, nhà-cửa của tôi-tớ người, thứ-tự công-việc của các quan, và đồ ăn mặc của họ, các quan chước-tửu, và các của-lễ thiêu người dâng trong đền Đức Giê-hô-va, thì mất vía. 6 Rồi bà nói rằng: Đều tôi nghe nói trong xứ tôi về lời nói và sự khôn-ngoan của vua, thì thật lắm. 7 Song trước khi tôi chưa đến đây, và chưa thấy tạn mắt những đều nầy, thì tôi chẳng tin; và kìa, người ta chẳng nói đến được phân nửa! Sự khôn-ngoan và oai-nghi của vua trổi hơn tiếng-đồn tôi đã nghe. 8 Các tôi-tớ vua thật có phước thay! Các tôi-tớ vua hằng đứng chầu trước mặt vua, nghe sự khôn-ngoan của vua, lấy làm có phước thay! 9 Đáng khen-ngợi thay Giê-hô-va Đức Chúa Trời của vua, vì Ngài đẹp lòng vua, đặt vua trên ngôi của Y-sơ-ra-ên! Bởi vì Đức Giê-hô-va yêu-dấu Y-sơ-ra-ên mãi mãi, nên Ngài đã lập vua làm vua đặng cai-trị theo sự ngay-thẳng và công-bình. 10 Đoạn nữ-vương dâng cho vua một trăm hai mươi ta-lâng vàng và rất nhiều thuốc thơm cùng ngọc quí. Từ đó nhẫn nay, chẳng hề có ai đem thuốc thơm đến số nhiều bằng của nữ-vương nước Sê-ba dâng cho vua Sa-lô-môn.
11 Đoàn tàu Hi-ram chở vàng Ô-phia, cũng chở cây bạch-đàn rất nhiều, và ngọc quí. 12 Vua dùng cây bạch-đàn nầy mà làm bao-lơn cho đền-thờ Đức Giê-hô-va và cho nhà vua, cùng những đờn-cầm và đờn-sắt cho con hát. Từ đó, chẳng hề có ai đem đến Giê-ru-sa-lem cây bạch-đàn dường ấy nữa, không ai thấy lại cho đến ngày nay.
13 Vua Sa-lô-môn ban cho nữ-vương Sê-ba mọi đều người ước và xin, chẳng kể những vật mà Sa-lô-môn đã ban cho bà, tùy lệ thường của vua. Đoạn, bà và các tôi-tớ bà lên đường trở về xứ mình.
Sự trị-vì của vua công-bình
Thơ Sa-lô-môn làm
72 1 Hỡi Đức Chúa Trời, xin ban cho vua sự xét-đoán của Chúa,
Và ban cho vương-tử sự công-bình của Ngài.
2 Người sẽ đoán-xét dân-sự Chúa cách công-bình,
Xử kẻ khốn-cùng cách ngay-thẳng.
3 Nhơn vì sự công-bình, các núi và gò-nỗng
Sẽ đem bình-an đến cho dân-sự.
4 Người sẽ đoán-xét kẻ khốn-cùng của dân,
Cứu con-cái người thiếu-thốn, và chà nát kẻ hà-hiếp.
5 Hễ mặt trời, mặt trăng còn có bao lâu,
Thì chúng nó kính-sợ Chúa bấy lâu, cho đến muôn đời.
6 Vua sẽ giáng xuống như mưa trên cỏ mới phát,
Khác nào giọt của trận mưa tưới đất vậy.
7 Trong ngày vua ấy, người công-bình sẽ hưng-thạnh,
Cũng sẽ có bình-an dư-dật cho đến chừng mặt trăng không còn.
8 Người sẽ quản-hạt từ biển nầy tới biển kia,
Từ sông cho đến cùng trái đất.
9 Những người ở đồng vắng sẽ cúi lạy trước mặt người;
Còn các kẻ thù-nghịch người sẽ liếm bụi đất.
10 Các vua Ta-rê-si và những cù-lao sẽ cống thuế cho người.
Vua Sa-ba và vua Sê-ba sẽ cống lễ cho người.
11 Phải, hết thảy các vua sẽ sấp mình xuống trước mặt người;
Các nước sẽ phục-sự người.
12 Vì người sẽ giải kẻ thiếu-thốn khi nó kêu-cầu,
Và cứu người khốn-cùng không có ai giúp-đỡ.
13 Người sẽ thương-xót kẻ khốn-cùng, người thiếu-thốn,
Và cứu linh-hồn của người thiếu-thốn.
14 Người sẽ chuộc linh-hồn họ khỏi sự hà-hiếp và sự hung-bạo;
Cũng sẽ xem huyết họ là quí-báu.
15 Người sẽ được sống, và thiên-hạ sẽ dâng vàng Sa-ba cho người,
Người ta sẽ cầu-nguyện cho người luôn luôn, và hằng ngày chúc phước cho người.
16 Sẽ có dư-dật ngũ-cốc trên đất và trên đỉnh các núi;
Bông-trái nó sẽ lào-xào như Li-ban;
Còn người ở thành-thị sẽ hưng-thạnh như cỏ của đất,
17 Danh người sẽ còn mãi mãi,
Hễ mặt trời còn đến chừng nào, danh người sẽ noi-theo chừng nấy:
Người ta sẽ nhơn danh người mà chúc phước nhau!
Các nước đều sẽ xưng người là có phước.
18 Đáng ngợi-khen Giê-hô-va Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên,
Chỉ một mình Ngài làm những sự lạ-lùng!
19 Đáng ngợi-khen danh vinh-hiển Ngài đến đời đời!
Nguyện khắp trái đất được đầy sự vinh-hiển của Ngài! A-men! A-men!