Có lẽ thành tựu nổi tiếng nhất của Sa-lô-môn là việc xây dựng đền thờ nguy nga tại Giê-ru-sa-lem. Một đền thờ có vẻ đẹp vô song, nó sẽ trở thành biểu tượng quốc gia về mối quan hệ đặc biệt của Y-sơ-ra-ên với Đức Chúa Trời. Vua Đa-vít đã vạch ra những kế hoạch ban đầu, và giờ đây Sa-lô-môn có nhiệm vụ giám sát việc xây dựng. Chi tiết mô tả về đền thờ gợi nhớ đến việc xây dựng đền tạm trong đồng vắng. Thậm chí bản thân hai công trình này có thiết kế tương tự, dù nhiều tầng và hành lang lớn là hai bổ sung chính trong trường hợp của đền thờ.
Phần lớn công việc được thực hiện với vật liệu do các thợ thủ công lành nghề từ Ty-rơ cung cấp. Ghi chép bắt đầu với việc lập giao ước giữa Sa-lô-môn và Vua Hi-ram xứ Ty-rơ. (Sau đó, một người khác tên là Hu-ram sẽ được đưa từ Ty-rơ đến để làm các đồ bằng đồng cho đồ đạc trong đền thờ.) Công trình hoàn thành thật vô cùng tráng lệ, không thể nào mô tả hết được.
Sa-lô-môn sắm-sửa cất đền-thờ
(1 Các vua) 5 1 Hi-ram, vua Ty-rơ, hay Sa-lô-môn đã được xức dầu làm vua đặng kế-vị cha người, bèn sai tôi-tớ mình đến cùng người; vì Hi-ram vẫn yêu-mến Đa-vít luôn. 2 Sa-lô-môn sai sứ nói với Hi-ram rằng: 3 Vua biết rằng Đa-vít, thân-phụ tôi, không cất được một cái đền cho danh Giê-hô-va Đức Chúa Trời người, vì cớ chinh-chiến thù-nghịch vây tứ phía người, cho đến ngày Đức Giê-hô-va đã khiến chúng nó phục dưới chơn người. 4 Nhưng bây giờ, Giê-hô-va Đức Chúa Trời tôi đã ban cho tôi bằng-yên tứ phía, chẳng còn cừu-địch, chẳng còn tai-họa. 5 Vậy, tôi tính cất một cái đền cho danh Giê-hô-va Đức Chúa Trời tôi, theo như Đức Giê-hô-va đã phán cùng Đa-vít, cha tôi, mà rằng: Con trai ngươi, mà ta sẽ khiến ngồi trên ngai ngươi kế-vị ngươi, sẽ cất một cái đền cho danh ta.
Sắm-sửa cất đền-thờ
(2 Sử ký) 2 1 Vả, Sa-lô-môn định cất một cái đền cho danh Đức Giê-hô-va, và một cái cung cho nước mình.
3 Sa-lô-môn sai đến Hi-ram, vua Ty-rơ, mà nói rằng: Vua đã hậu-đãi Đa-vít, cha tôi, cung-cấp cây bá-hương cho người đặng cất cái cung để người ở; xin vua cũng hãy đãi tôi như thế. 4 Nầy tôi toan cất một đền cho danh Giê-hô-va Đức Chúa Trời tôi, biệt đền ấy riêng ra thánh cho Ngài, đặng xông nhũ-hương trước mặt Ngài, bày bánh trần-thiết luôn luôn, dâng của-lễ thiêu về buổi sáng và về buổi chiều, hoặc trong ngày sa-bát, ngày mồng một, hay là trong những ngày lễ định của Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi; đều đó vốn là một lệ-định cho Y-sơ-ra-ên đến đời đời. 5 Đức Chúa Trời chúng tôi vốn cao-sang, vượt qua hết các thần; nên cái đền tôi toan cất sẽ nguy-nga. 6 Chớ thì ai có sức xây-cất cho Chúa một cái đền; vì trời và đến đỗi trời của các từng trời còn chẳng chứa Ngài được thay! Vậy tôi là ai, mà cất được một cái đền cho Chúa? Cất nó chẳng qua là để xông hương tại trước mặt Ngài đó thôi. 7 Vậy bây giờ, vua hãy sai đến cùng tôi một người giỏi về nghề chế đồ vàng, bạc, đồng, sắt, thạo dệt bằng chỉ tím, đỏ và xanh, cùng biết chạm-trổ đủ nghề, để làm việc với những người tài-giỏi ở bên tôi, tại Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, mà Đa-vít, cha tôi, đã sắm-sẵn. 8 Cũng hãy lấy ở Li-ban gỗ bá-hương, gỗ tòng, và gỗ bạch-đàn-hương mà gởi đến cho tôi; vì tôi vẫn biết rằng các tôi-tớ vua đều thạo đốn cây trên Li-ban; nầy các tôi-tớ tôi cũng sẽ giúp-đỡ các tôi-tớ vua, 9 đặng lo đốn sắm-sửa cây-gỗ cho nhiều; vì cái đền mà tôi toan cất sẽ nguy-nga lạ-kỳ. 10 Tôi sẽ cấp cho các tôi-tớ vua, là những kẻ đốn cây, hai vạn cô-rơ lúa miến giã rồi, hai vạn cô-rơ lúa mạch, hai vạn bát rượu, và hai vạn bát dầu.
11 Hi-ram, vua Ty-rơ, bèn viết thơ gởi cho Sa-lô-môn, mà rằng: Vì cớ Đức Giê-hô-va yêu-thương dân-sự mình, nên Ngài đã lập vua làm vua trên chúng. 12 Hi-ram lại nói: Ngợi-khen Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, là Đấng dựng-nên trời đất, vi Ngài đã ban cho vua Đa-vít một con trai khôn-ngoan, dẽ-dặt, thông-minh, để cất một cái đền cho Ngài và một cái cung cho nước người. 13 Bây giờ, tôi sai đến cho vua một người khéo, có trí thông-sáng, là Hu-ram-A-bi, 14 con trai của người đờn-bà về chi-phái Đan, cha người là dân Ty-rơ; người giỏi về nghề chế đồ vàng, bạc, đồng, sắt, đá, và gỗ, thạo dệt chỉ tím, xanh, và đỏ sặm, cùng chỉ gai trắng xe mịn, cũng biết làm các thứ chạm-trổ, và tạo ra đủ thứ vật xảo mà người ta sẽ biểu nó làm. Nó sẽ làm việc với những thợ khéo của thân-phụ vua là Đa-vít chúa tôi. 15 Vậy bây giờ xin chúa tôi hãy gởi cho các tôi-tớ chúa lúa miến, lúa mạch, dầu, và rượu, mà chúa tôi đã nói đến; 16 còn chúng tôi sẽ đốn gỗ tại trên Li-ban theo số bao nhiêu vua cần-dùng, rồi kết thành bè đem ra biển đến Gia-phô; đoạn vua sẽ chở lên Giê-ru-sa-lem.
(1 Các vua) 5 10 Vậy, Hi-ram cấp cho Sa-lô-môn gỗ bá-hương và gỗ tòng, bao nhiêu tùy người muốn. 11 Còn Sa-lô-môn cấp cho Hi-ram hai vạn cô-rơ lúa mạch, dùng làm lương-thực cho nhà người, và hai mươi cô-rơ dầu rất trong. Đó là số Sa-lô-môn cấp cho Hi-ram mỗi năm.
12 Như vậy, Đức Giê-hô-va ban sự khôn-ngoan cho Sa-lô-môn y như Ngài đã hứa với người. Hi-ram và Sa-lô-môn hòa nhau và lập giao-ước với nhau.
13 Vua Sa-lô-môn chiêu-mộ trong cả Y-sơ-ra-ên những người làm xâu, số là ba vạn người, 14 sai họ đi đến Li-ban, thay phiên mỗi tháng mười ngàn người; họ ở một tháng tại Li-ban và hai tháng nơi nhà mình; A-đô-ni-ram quản-xuất người làm xâu. 15 Sa-lô-môn còn có bảy vạn người khiêng gánh, và tám vạn người đẽo đá trong núi, 16 không kể những đốc-công, số là ba ngàn ba trăm người, mà Sa-lô-môn đã đặt coi-sóc công-việc và sai khiến dân làm việc.
17 Vua truyền họ lấy đá lớn, đá quí giá mà đẽo đi, đặng dùng làm nền của đền-thờ. 18 Các thợ của Sa-lô-môn và của Hi-ram, với người Ghi-bê-lít, đẽo đá và dọn cây cùng đá đặng cất đền.
(2 Sử ký) 2 2 Sa-lô-môn bèn lựa bảy vạn người bưng-gánh, tám vạn người thợ đẽo đá trên núi, và ba ngàn sáu trăm người đốc công.
17 Sa-lô-môn bèn điểm-soát các người ngoại-quốc ở trong nước Y-sơ-ra-ên, tùy theo số Đa-vít, cha người, đã điểm-soát; thấy được mười lăm vạn ba ngàn sáu trăm người. 18 Trong số đó người đặt bảy vạn người làm kẻ khiêng-gánh, tám vạn người đẽo đá trên núi, và ba ngàn sáu trăm người đốc-công, đặng sai-khiến dân-chúng làm việc.
Kiểu đền-thờ Sa-lô-môn xây-cất
(1 Các vua) 6 1 Xảy ra năm bốn trăm tám mươi, sau khi dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ê-díp-tô, là năm thứ tư của Sa-lô-môn trị-vì trên Y-sơ-ra-ên, nhằm tháng Xíp, nghĩa là tháng thứ hai, thì người cất đền của Đức Giê-hô-va.
(2 Sử ký) 3 1 Sa-lô-môn khởi cất đền Đức Giê-hô-va tại Giê-ru-sa-lem, trên núi Mô-ri-a, là nơi Đức Giê-hô-va đã hiện ra cùng Đa-vít, cha người, tại trên chỗ mà Đa-vít đã dọn, tức là trong sân đạp lúa của Ọt-nan, người Giê-bu-sít.
(1 Các vua) 6 11 Bấy giờ có lời của Đức Giê-hô-va phán với Sa-lô-môn rằng: 12 về nhà nầy mà ngươi đương xây-cất, nếu ngươi vâng theo các luật-lệ ta, noi theo các mạng-lịnh ta, giữ và đi trong hết thảy các điều-răn của ta, thì ta sẽ vì ngươi làm hoàn-thành lời ta đã hứa cùng Đa-vít, cha ngươi. 13 Ta sẽ ngự giữa dân Y-sơ-ra-ên, chẳng hề bỏ Y-sơ-ra-ên, là dân ta.
2 Cái đền mà vua Sa-lô-môn cất cho Đức Giê-hô-va, bề dài có sáu mươi thước, bề ngang hai mươi thước, và bề cao ba mươi thước.
9b Sa-lô-môn lợp nó bằng đòn tay và ván gỗ bá-hương,
18 Ở phía trong đền, có gỗ bá-hương chạm hình dưa-ác và hoa mới nở; toàn là gỗ bá-hương, không thấy đá.
(2 Sử ký) 3 5 Cái vách đền lớn, người lợp bằng gỗ bá-hương, và bọc vàng ròng, chạm hình cây chà-là và dây-xích ở trên. 6 Người lót đền bằng đá quí đặng trang-sức nó; vàng là vàng Phạt-va-im. 7a Người lại bọc vàng cái đền, mè, nghạch-cửa, vách, và cửa của đền,
(1 Các vua) 6 7 Khi cất đền, người ta dùng đá đã đẽo sẵn nơi hầm, nên không nghe tiếng búa, rìu hay là khí-dụng khác bằng sắt tại nơi đền đương khi cất.
(2 Sử ký) 3 4 Hiên cửa ở phía trước, bề dài hai mươi thước, y như bề ngang của đền vậy, và bề cao một trăm hai mươi thước; người bọc bề trong bằng vàng ròng.
(1 Các vua) 6 4 Vua cũng làm cho đền những cửa sổ có song, khuôn-cây. 5 Người cất những từng lầu, dựa vào vách tứ phía đền, tức là dựa vào vách chung-quanh đền-thờ và nơi thánh; cũng làm những phòng chung-quanh đền. 6 Từng dưới rộng năm thước, từng giữa rộng sáu thước, và từng trên rộng bảy thước; vì vua cất sụt-lui các vách vòng ngoài nhà, đặng tránh sường xà-hoành đâm vào vách đền.
8 Cửa vào các phòng từng thứ nhì, ở bên phía hữu của đền; người ta đi lên từng giữa bởi một cái thang khu-ốc; rồi từ từng giữa lên từng thứ ba.
10 cũng cất những từng lầu cao năm thước dựa vào tứ phía đền, dính với nhà bởi cây đà bá-hương.
(2 Sử ký) 3 9b người cũng bọc vàng các phòng cao.
(1 Các vua) 6 16 Từ cuối phía trong đền hai mươi thước, người đóng ngăn bằng ván bá-hương, từ nền cho đến trần, đặng làm nơi chí-thánh. 17 Còn bốn mươi thước kia, làm tiền-đường của đền-thờ.
19 Còn nơi chí-thánh, Sa-lô-môn đặt ở phía trong đền, tận cuối trong, đặng để hòm giao-ước của Đức Giê-hô-va tại đó. 20 Phía trong nơi chí-thánh có hai mươi thước bề dài, hai mươi thước bề ngang, và hai mươi thước bề cao; người bọc nó bằng vàng ròng, và cũng bọc vàng bàn-thờ bằng cây bá-hương nữa. 21 Sa-lô-môn bọc vàng ròng tuồng trong của nhà, và lấy xiềng vàng giăng trước nơi chí-thánh và bọc bằng vàng. 22 Người cũng bọc vàng toàn cả nhà; người cũng lót vàng khắp mặt bàn-thờ ở đằng trước nơi chí-thánh.
(2 Sử ký) 3 8 Người cũng làm nơi chí-thánh: bề dài hai mươi thước, y như bề ngang của đền, và bề ngang cũng hai mươi thước; người bọc nơi ấy bằng vàng ròng; vàng dùng cọng đặng sáu trăm ta-lâng. 9a Những đinh vàng cân nặng năm mươi siếc-lơ;
(1 Các vua) 6 23 Người làm cho nơi chí-thánh hai chê-ru-bin bằng gỗ ô–li-ve, bề cao mười thước. 24 Cánh nầy và cánh kia của mỗi chê-ru-bin có năm thước, thế là mười thước từ chót cánh nầy tới chót cánh kia. 25 Chê-ru-bin thứ nhì cũng có mười thước. Hai chê-ru-bin đều đồng một cỡ và một dáng với nhau. 26 Chê-ru-bin nầy có mười thước bề cao, và chê-ru-bin kia cũng vậy. 27 Sa-lô-môn để hai chê-ru-bin tại nơi chí-thánh, ở trong cùng của đền; cánh sè ra thế nào cho một cánh của chê-ru-bin thứ nhứt đụng trong vách nầy, và một cánh của chê-ru-bin thứ nhì đụng vách kia. Còn hai cánh khác đều đụng nhau tại giữa nơi chí-thánh. 28 Người cũng bọc vàng cho hai chê-ru-bin.
(2 Sử ký) 3 10 Tại trong nơi chí-thánh, người làm hai chê-ru-bin, cứ phép trổ tượng, rồi bọc vàng. 11 Bốn cánh của hai chê-ru-bin dài hai mươi thước; cánh nầy của chê-ru-bin bên hữu dài năm thước, đụng đến vách đền; còn cánh kia cũng dài năm thước, và đụng cánh của chê-ru-bin bên tả. 12 Cánh nầy của chê-ru-bin về bên tả dài năm thước, và đụng đến vách đền; còn cánh kia cũng dài năm thước, tiếp-giáp với cánh chê-ru-bin về bên hữu. 13 Các cánh của hai chê-ru-bin đều sè ra, cọng dài hai mươi thước; hai chê-ru-bin đứng thẳng chơn lên, ngảnh mặt hướng về nơi thánh. 14 Người lại chế bức màn bằng chỉ màu xanh, màu tím, màu đỏ sặm, cùng chỉ gai xe mịn, rồi ở trên thêu hình chê-ru-bin.
(1 Các vua) 6 15 Người lấy ván bá-hương đóng vách phía trong đền, từ đất cho đến trần, và lót nền đất bằng ván cây tùng.
29 Bốn phía vách đền, phía trong và phía ngoài, Sa-lô-môn khiến chạm nổi lên hình chê-ru-bin, cây chà-là và hoa nở; 30 cũng phủ đất nhà bằng vàng, bề trong và bề ngoài.
31 Tại chỗ vào nơi chí-thánh, người làm một cái cửa hai cánh bằng gỗ ô-li-ve; thanh và cột choán một phần năm của mặt tiền. 32 Người khiến chạm nổi lên trên hai cánh cửa bằng gỗ ô-li-ve ấy những hình chê-ru-bin, cây chà-là và hoa nở; rồi bọc bằng vàng, tráng vàng ra trên hình chê-ru-bin và hình cây chà-là. 33 Về cửa đền-thờ, người cũng làm cột bằng gỗ ô-li-ve, choán hết một phần tư của vách, 34 lại làm hai cánh cửa bằng gỗ tòng; mỗi cánh có hai miếng trám khép lại được. 35 Sa-lô-môn khiến chạm nổi lên những hình chê-ru-bin, cây chà-là và hoa nở; rồi bọc bằng vàng, tráng vàng ra trên các vật chạm-trổ.
37 Năm thứ tư, nhằm tháng Xíp, cái nền của đền-thờ Đức Giê-hô-va đã đặt; năm thứ mười một, nhằm tháng Bu-lơ, nghĩa là tháng tám, đền-thờ hoàn-thành trong mọi phần nó, theo kiểu đã ra. Sa-lô-môn cất đền hết bảy năm.
Tuồng trong của đền-thờ
7 13 Vua Sa-lô-môn sai người đòi Hi-ram ở Ty-rơ đến. 14 Người là con trai của một đờn-bà góa về chi-phái Nép-ta-li, còn cha là người Ty-rơ, làm thợ đồng. Hi-ram đầy sự khôn-ngoan, thông-hiểu, có tài làm các thứ công-việc bằng đồng. Người đến vua Sa-lô-môn, và làm mọi công-việc người.
15 Người làm hai cây trụ bằng đồng, cây thứ nhất cao mười tám thước, và một sợi dây mười hai thước đo bề tròn của cây thứ nhì. 16 Người đúc hai đầu trụ bằng đồng, đặt nó trên chót trụ, bề cao đầu trụ nầy là năm thước, bề cao đầu trụ kia cũng là năm thước. 17 Những mặt-võng xe lại và những dây hoa tréo như chuyền nhỏ trang-điểm đầu trụ đặt ở trên chót trụ; có bảy dây hoa cho đầu trụ nầy, và bảy dây hoa cho đầu trụ kia. 18 Hi-ram vấn chung-quanh mặt-võng nầy hai hàng trái lựu đặng trang-sức cho đầu trụ nầy, và cũng làm như vậy cho đầu trụ kia. 19 Những đầu trụ ở trên các cây trụ trong hiên-cửa, đều có hoa-huệ ở chót, cao bốn thước. 20 Những đầu trụ ở trên trụ nẩy ra liền thân trên nơi bầu bên phía kia mặt-võng: có hai trăm trái lựu sắp hai hàng vòng chung-quanh hai đầu trụ. 21 Hi-ram dựng những cây trụ trong hiên-cửa đền-thờ. Người dựng cây trụ bên hữu, và đặt tên là Gia-kin; đoạn dựng cây trụ bên tả, đặt tên là Bô-ách. 22 Trên chót trụ, thì chế hình hoa-huệ. Công-việc làm những cây trụ đều hoàn-thành là như vậy.
(2 Sử ký) 4 1 Người lại làm một cái bàn-thờ đồng, bề dài hai mươi thước, bề ngang hai mươi thước, và bề cao mười thước. 2 Người làm một cái biển đúc, từ mép nầy qua mép kia được mười thước, tròn tứ-vi, và cao năm thước; một sợi dây dài ba mươi thước vấn chung-quanh nó. 3 Ở dưới vòng chung-quanh biển, có hình giống con bò, mỗi thước mười con, làm hai hàng, đúc một lượt với biển. 4 Biển để kê trên mười hai tượng con bò, ba con xây về hướng bắc, ba con xây về hướng tây, ba con xây về hướng nam, và ba con xây về hướng đông; biển ở trên các con bò ấy, thân sau chúng nó đều quay vào trong. 5 Bề dày biển một gang, mép nó như mép cái chén, làm tợ hoa-huệ nở; chứa được ba ngàn bát.
10 Người để cái biển ở bên hữu đền, hướng đông về phía nam. 11 Hu-ram lại làm những bình tro, vá, và chậu.
6c còn những thầy tế-lễ đều tắm-rửa trong biển đúc.
(1 Các vua) 7 27 Người cũng làm mười viên táng đồng, mỗi viên bốn thước bề dài, bốn thước bề ngang, và ba thước bề cao. 28 Các viên táng làm cách nầy: Có những miếng trám đóng vào khuông. 29 Trên các trám đóng vào khuông nầy có hình sư-tử, bò, và chê-ru-bin; nơi triêng trên, cũng có như vậy. Còn nơi triêng dưới sư-tử và bò, có những dây hoa thòng. 30 Mỗi viên táng có bốn bánh xe đồng với cốt đồng, và nơi bốn góc có những cái đế đúc để chịu cái chậu và những dây hoa ở bên mỗi cái đế. 31 Giữa viên táng trên đầu trụ có một miệng tròn sâu một thước, và rộng một thước rưỡi. Cái miệng nầy cũng có hình chạm trổ. Còn các miếng trám thì vuông, chớ không phải tròn. 32 Bốn bánh xe đều ở dưới những miếng trám; và các cốt bánh xe thì đóng vào viên táng. Mỗi bánh xe cao một thước rưỡi. 33 Bánh làm như bánh của cái cộ: Trục, vành, căm, và tum nó, đều đúc cả. 34 Có bốn con bọ ở nơi bốn góc của mỗi viên táng và liền với táng. 35 Đầu viên táng hình tròn nhọn, và cao nửa thước; nó cũng có biên và trám. 36 Trên mặt biên và trám của đế, tại nơi trống của mỗi biên và trám chừa ra, Hi-ram chạm những chê-ru-bin, sư-tử, cây chà-là, và dây hoa chung-quanh. 37 Người theo kiểu nầy mà làm mười viên táng, đúc một thứ, một cỡ, và một dáng với nhau.
38 Người cũng làm mười cái thùng bằng đồng, mỗi cái chứa bốn mươi bát. Mỗi thùng có bốn thước và để trên một táng của mười cái táng. 39a Người sắp-đặt táng như vầy: năm cái về bên hữu đền, và năm cái về bên tả.
(2 Sử ký) 4 6 Người cũng làm mười cái thùng, để năm cái bên hữu và năm cái bên tả, đặng rửa tại đó; người ta rửa trong đó vật gì thuộc về của-lễ thiêu; còn những thầy tế-lễ đều tắm-rửa trong biển đúc.
(1 Các vua) 6 36 Người xây tường hành-lang phía trong bằng ba hàng đá chạm, và một hàng cây xà gỗ bá-hương.
(2 Sử ký) 4 9 Người cũng làm hành-lang cho thầy tế-lễ, và cái sân rộng, các cửa của sân, rồi bọc đồng các cánh cửa ấy.
(1 Các vua) 7 40 Người cũng làm chảo, vá, và ảng.
Vậy, Hi-ram làm xong mọi công-việc cho Sa-lô-môn trong đền của Đức Giê-hô-va: 41 tức là hai cây trụ, hai đầu trụ tròn trên đỉnh trụ, hai tấm mặt-võng bao hai đầu trụ tròn, luôn với đỉnh trụ; 42 bốn trăm trái lựu sắp hai hàng vòng chung-quanh mặt-võng bao hai đầu trụ tròn nơi đỉnh trụ; 43 mười viên táng và mười cái bồn trên táng; 44 biển đúc nguyên miếng một và mười hai con bò để dưới biển; 45 chảo, vá, và ảng. Các khí-dụng nầy mà Hi-ram làm cho Sa-lô-môn trong đền Đức Giê-hô-va, đều bằng đồng đánh bóng. 46 Vua biểu đúc các vật đó tại đồng bằng Giô-đanh, trong một nơi đất sét, giữa Su-cốt và Xát-than. 47 Sa-lô-môn không cân một món nào trong các khí-dụng ấy, bởi vì nhiều quá; người không xét sự nặng của đồng.
48 Sa-lô-môn lại làm những khí-dụng cho đền Đức Giê-hô-va: là bàn-thờ vàng, những bàn bằng vàng, để bánh trần-thiết; 49 chơn đèn bằng vàng ròng đặt trước nơi chí-thánh, năm cái ở bên hữu và nằm cái ở bên tả, cùng hoa, thếp đèn, và cái nỉa bằng vàng; 50 những chén, dao, chậu, muổng, và đồ đựng tro bằng vàng ròng; những chốt cửa hoặc dùng cho cửa của nhà phía trong, hoặc nơi chí-thánh, hay là dùng cho cửa của đền-thờ, thì đều bằng vàng.
(2 Sử ký) 4 7 Người làm mười cái chơn-đèn bằng vàng, theo kiểu đã định; rồi để nó trong đền-thờ, năm cái bên hữu, năm cái bên tả. 8 Lại đóng mười cái bàn, để trong đền-thờ, năm cái bên hữu, và năm cái bên tả. Rồi làm một trăm cái chậu bằng vàng.
19 Sa-lô-môn làm hết thảy các đồ-lề trong đền Đức Chúa Trời: bàn-thờ vàng, những cái bàn dùng sắp bánh trần-thiết, 20 chơn đèn, và cái thếp nó bằng vàng ròng đặng thắp trước nơi chí-thánh, theo lệ đã định; 21 cũng làm các hoa, thếp, và nỉa bằng vàng ròng; 22 những dao, chậu, chén, lư-hương, cũng bằng vàng ròng; và nơi vào đền, các cánh cửa đền trong của nơi chí-thánh, cùng các cánh cửa của đền-thờ cũng đều bằng vàng.
(1 Các vua) 7 51 Các công-việc mà Sa-lô-môn làm cho nhà Đức Giê-hô-va, đều được hoàn-thành là như vậy. Đoạn, Sa-lô-môn sai đem các vật mà Đa-vít, cha người, đã biệt ra thánh, tức là bạc, vàng, các thứ khí-dụng, và để trong kho-tàng của đền Đức Giê-hô-va.
( 2 Sử ký) 8 12 Bấy giờ, Sa-lô-môn dâng của-lễ thiêu cho Đức Giê-hô-va tại trên bàn-thờ của Giê-hô-va mà người đã xây trước hiên cửa; 13 lại tùy theo lệ-luật của Môi-se, người dâng mỗi ngày của-lễ phải dâng, cùng trong các ngày sa-bát, ngày mồng một, và hằng năm nhằm ba lễ trọng-thể, tức lễ bánh không men, lễ các tuần-lễ, và lễ lều-tạm. 14 Tùy theo lịnh-truyền của Đa-vít, cha mình, người phân-định ban-thứ của những thầy tế-lễ trong phần-việc họ, và lập người Lê-vi trong chức-sự họ, đặng ngợi-khen Chúa và hầu-việc tại trước mặt những thầy tế-lễ, cứ công-việc ngày nào theo ngày nấy; tại mỗi cửa cũng đặt kẻ giữ cửa, cứ theo phiên mình, vì Đa-vít, người của Đức Chúa Trời, đã truyền lịnh như vậy. 15 Phàm đều gì vua đã phán dạy những thầy tế-lễ và người Lê-vi, hoặc về kho-tàng hay là về việc khác, thì họ chẳng bỏ-bê chút nào. 16 Vả, các tài-liệu mà Sa-lô-môn dùng về việc cất đền của Đức Giê-hô-va, đều đã sắm-sửa từ ngày đặt nền cho đến khi công-việc xong. Đền của Đức Giê-hô-va đã cất xong là như vậy.